Hoàn thiện các quy định về bảo hộ quyền tác giả trong dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Sở hữu trí tuệ (“Luật SHTT”) số 50/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2006. Qua 16 năm thực hiện, Luật SHTT đã phát huy hiệu quả to lớn trong thực tiễn, tạo hành lang pháp lý hữu hiệu trong việc xác lập, bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Tuy nhiên, quá trình thực thi Luật SHTT cũng cho thấy một số quy định của Luật đang bộc lộ những hạn chế, bất cập so với yêu cầu thực tiễn. Mặc dù Luật SHTT đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009 và 2019, nhưng những bất cập đó vẫn chưa được khắc phục triệt để. Đặc biệt, với tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4IR) và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, việc tăng cường bảo hộ tài sản sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay. 

Theo dự kiến, Luật SHTT (sửa đổi năm 2022) sẽ được trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2022). Dự thảo Luật SHTT sửa đổi (“Dự thảo Luật”) ghi nhận 7 nội dung sẽ được sửa đổi, bổ sung. Trong đó nội dung được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất là các quy định về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền… (gọi chung là nội dung về “bảo hộ quyền tác giả”). Việc tập trung sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan đến bảo hộ quyền tác giả nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự phát triển như vũ bão của công nghệ số hiện nay trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Đồng thời, cập nhật các quy định mới về bảo hộ quyền tác giả trong các văn bản dưới luật được ban hành trong thời gian qua, cũng như để đảm bảo tương thích với Hiệp ước quyền tác giả 1996 (WCT) (Việt Nam gia nhập từ 17/2/2022) và Hiệp ước biểu diễn bản ghi âm (WPPT) 1996 (Việt Nam gia nhập từ ngày 01/7/2022).

Để giúp hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa của các quy định sửa đổi, bổ sung liên quan đến bảo hộ quyền tác giả trong Dự thảo Luật SHTT (sửa đổi), trong bài viết này tác giả sẽ đi sâu phân tích, bình luận, đánh giá về các quy định đó, đồng thời đưa ra những ý kiến, kiến nghị với ban soạn thảo nhằm góp phần hoàn thiện Dự thảo Luật trước khi trình Quốc hội xem xét thông qua.

II. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG DỰ THẢO LUẬT SHTT (SỬA ĐỔI)

2.1. Quy định rõ hơn trong việc xác định chủ thể nắm giữ quyền tài sản



2.1.1. Bổ sung quy định về “Tiền bản quyền” (Điều 4.10a)
Luật SHTT hiện hành và các văn bản dưới luật đã có các quy định về “nhuận bút”, “thù lao”, “quyền lợi vật chất” và “quyền lợi vật chất khác”. Tại Điều 4.10a Dự thảo Luật có bổ sung quy định về tiền bản quyền, theo đó, “Tiền bản quyền là khoản tiền trả cho việc sáng tạo hoặc chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, bao gồm cả tiền nhuận bút, tiền thù lao”. 

Việc bổ sung quy định này là cần thiết trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay cũng như thông lệ pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, trong quy định trên cần làm rõ hơn nội hàm của khái niệm “tiền bản quyền”. Cụ thể: ngoài nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất thì tiền bản quyền có bao gồm “quyền lợi vật chất khác” hay không? Tại Điều 20 (quyền tài sản), Điều 21 (quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu), Điều 30 (quyền của nhà xuất bản, ghi âm) và Điều 31 (quyền của tổ chức phát sóng) của Dự thảo Luật đều quy định về các “quyền lợi vật chất khác” bên cạnh “tiền bản quyền”. Như vậy có thể hiểu rằng theo quy định của Dự thảo Luật thì các “quyền lợi vật chất khác” không bao hàm trong khái niệm “tiền bản quyền”. 

Về vấn đề này, theo quy định tại khoản 16 Điều 3 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của Chính Phủ, quyền lợi vật chất khác là các lợi ích mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan được hưởng ngoài tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất như việc nhận giải thưởng, nhận sách biếu khi xuất bản, nhận vé mời xem chương trình biểu diễn, trình chiếu tác phẩm điện ảnh, trưng bày, triển lãm tác phẩm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các quyền lợi vật chất được liệt kê tại điều luật này cũng đang bị bó hẹp, không còn phù hợp với thực tiễn.

Ví dụ: Trường hợp tác giả hoặc chủ sở hữu được trả cho việc sáng tạo hay chuyển giao quyền tác giả bằng lợi ích vật chất khác không phải là tiền (như ô tô, xe máy, điện thoại...), nhưng cũng không phải các quyền lợi vật chất khác được liệt kê tại khoản 16 Điều 3 Nghị định 22 thì người sử dụng tác phẩm có được coi là đã trả tiền bản quyền cho tác giả/chủ sở hữu hay không? 

Do đó, Dự thảo Luật nên bổ sung làm rõ nội hàm khái niệm “tiền bản quyền” để bao quát hết các hình thức trả tiền bản quyền bằng các “quyền lợi vật chất khác” trong thực tế, đồng thời khắc phục những bất cập trong quy định tại khoản 16 Điều 3 Nghị định 22/2018/NĐ-CP hiện hành. 

2.1.2. Bổ sung quy định về tác giả, đồng tác giả (Điều 12a)
Tại khoản 1 Điều 12a Dự thảo Luật quy định: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Trường hợp có hai hoặc nhiều người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả”. Quy định này làm rộng hơn nội hàm của khái niệm “tác giả” đối với tác phẩm khi pháp luật thừa nhận vai trò “đồng tác giả” đối với những người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Điều này cho phép xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của tác giả, đồng tác giả trong tác phẩm, đồng thời là căn cứ pháp lý để bảo vệ tốt hơn quyền tác giả, đồng tác giả. 

Khoản 2 Điều 12a Dự thảo Luật cũng quy định: “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả, đồng tác giả”. Quy định này là căn cứ rõ ràng để phân biệt giữa tác giả, đồng tác giả với những người không phải là tác giả, đồng tác giả của tác phẩm.  

Thực tế cho thấy khi thực hiện một tác phẩm hay một công trình nghiên cứu, các tác giả thường phải sưu tầm tài liệu, số liệu hoặc tham khảo ý kiến từ nhiều người, nhiều nguồn khác nhau. Các ý kiến góp ý từ người khác đôi khi cũng mang lại kết quả tích cực cho nghiên cứu đó, và trong mộ số trường hợp đã phát sinh tranh chấp khi người đóng góp ý kiến cũng muốn được công nhận là tác giả của tác phẩm, công trình nghiên cứu đó, nhất là khi tác phẩm, công trình nghiên cứu mang lại giá trị thương mại lớn. Với quy định mới được sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Luật về tác giả, đồng tác giả, người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm sẽ góp phần hạn chế những tranh chấp phát sinh, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tác giả, đồng tác giả.

2.1.3. Bổ sung quy định giả định về quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 198a)  
Tại Điều 6 Nghị định 105/2006/NĐ-CP đã quy định chi tiết về việc quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng nếu không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì các quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên. Nếu bản định hình đầu tiên không còn tồn tại thì quyền này được xem là có thực trên cơ sở các thông tin về tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan tương ứng được thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.

Quy định bổ sung tại Điều 198a giả định quyền tác giả, quyền liên quan trong các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính, hình sự về quyền tác giả và quyền liên quan, nếu không có chứng cứ ngược lại thì tổ chức, cá nhân được nêu tên theo cách thông thường là tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng, nhà sản xuất tác phẩm điện ảnh, nhà xuất bản được coi là chủ thể quyền đối với tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đó và có quy định chi tiết thêm về thế nào là được nêu tên một cách thông thường. 

Về thực chất, quy định tại Điều 198a Dự thảo Luật đã luật hóa quy định tại Nghị định 105/2006/NĐ-CP nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan tại Việt Nam, đặc biệt là trong môi trường số và internet hiện nay. Quy định này cũng góp phần nâng cao nhận thức của tác giả/chủ sở hữu khi công bố tác phẩm của mình bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào thì cần phải ghi rõ tên tác giả/chủ sở hữu, thậm chí cả ngày hoàn thành tác phẩm để ghi nhận quyền của mình đối với tác phẩm mà mình tạo ra. 


(Ảnh chụp nguồn Internet)

Một ví dụ về vấn đề trên là vụ kiện liên quan đến bài hát “Gánh mẹ”, mặc dù tác giả phần lời (bài thơ Gánh mẹ) - ông Trương Minh Nhật chưa đăng ký quyền tác giả tại Cục bản quyền tác giả, nhưng ông Nhật có chứng cứ về việc mình đã đăng bài thơ này trên facebook cá nhân ngay sau khi sáng tác vào năm 2014 (có lập vi bằng). Hội đồng xét xử đã cho rằng dựa vào chứng cứ này có thể xác nhận việc ông Trương Minh Nhật là tác giả và đồng thời là chủ sở hữu của bài thơ “Gánh mẹ” – đồng thời cũng là tác giả của phần lời trong bài hát “Gánh mẹ” được sử dụng trong bộ phim “Lật mặt 4” do Công ty của ca sĩ Lý Hải sản xuất. Đây chính là một hình thức ghi nhận quyền tác giả theo bản gốc tác phẩm.

2.1.4. Bổ sung quy định về “quyền nhân thân” và “quyền tài sản” (Điều 19 và Điều 20)
Đối với quyền nhân thân, khoản 1 Điều 19 Dự thảo Luật bổ sung quy định: “Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này”. 

Theo quy định hiện hành, khi chủ sở hữu muốn sửa đổi tên tác phẩm cho phù hợp với mục đích sử dụng, khai thác tài sản (tác phẩm) thì đều phải có xác nhận đồng ý của tác giả cho mỗi lần ghi nhận sửa đổi tên tác phẩm tại Cục bản quyền tác giả. Việc này thường gây khó khăn cho chủ sở hữu khi tác giả ở xa, thậm chí ở nước ngoài, nhất là trong điều kiện dịch bệnh như dịch Covid-19 vừa qua. Do vậy, quy định mới này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng hơn cho chủ sở hữu khi thực hiện thủ tục sửa đổi tên tác phẩm. 

Một vấn đề nữa đặt ra là chủ sở hữu đã được nhận chuyển sử dụng quyền đặt tên, khi tiếp tục chuyển nhượng cho bên thứ ba khác (chuyển nhượng thứ cấp) thì có được chuyển nhượng cả quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm hay không?  Đây là vấn đề rất quan trọng cần phải xét đến và quy định cụ thể trong Luật SHTT vì quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm bản chất là gián tiếp đề cập đến quyền đặt tên tác phẩm hay đặt lại tên tác phẩm sau khi được nhận quyền sở hữu khai thác tài sản của tác phẩm. Do đó, cần phải có quy định thống nhất trong các văn bản dưới luật để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên.

Đối với quyền tài sản, đáng lưu ý là việc bổ sung quy định tại điểm a khoản 3 Điều 20 Dự thảo Luật giới hạn quyền của chủ sở hữu trong việc ngăn cấm người khác (i) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xoá bỏ, không có khả năng phục hồi lại và (ii) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Dịch vụ trung gian bao gồm: dịch vụ viễn thông, dịch vụ Internet, dịch vụ mạng xã hội trực tuyến, dịch vụ tìm kiếm thông tin số, dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số bao gồm cả dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử[1] và Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian gồm a) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet; b) Doanh nghiệp viễn thông; c) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số bao gồm cả dịch vụ cho thuê chỗ lưu trữ trang thông tin điện tử; d) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và đ) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tìm kiếm thông tin số[2]. 

Trong thời đại số hóa hiện nay, rất nhiều các hoạt động nghề nghiệp có liên quan đến quyền tác giả đều cần phải có sự tham gia của các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quy định bổ sung này chỉ cho phép sử dụng để truyền phát thông qua trung gian và không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao tự động xóa bỏ và không có khả năng hồi phục lại. 

Quy định bổ sung này hoàn toàn không được áp dụng với các trường hợp như website Phimmoi.net, Phimmoizz, https://phimmoichill.net/... hay các trang mạng tương tự khác đăng tải trái phép hàng nghìn bộ phim và show truyền hình vì các doanh nghiệp này có doanh thu từ quảng cáo trực tuyến và hoàn toàn có hệ thống máy chủ lưu trữ các dữ liệu không có bản quyền cung cấp trên website của họ và các dữ liệu này không phải là bản sao tự động xóa bỏ.




Với trường hợp các dịch vụ trung gian khác, theo quy định bổ sung nêu trên, ví dụ như các website cung cấp dịch vụ trung gian bán hàng thương mại điện tử như Lazada, Shopee, Sendo… khi đăng các hình ảnh các sản phẩm cho bên thứ ba khác nhằm mục đích bán hàng của bên thứ ba trong nhiều ngành nghề khác nhau như sách, đĩa nhạc, quần, áo… thì hành động này của các trang thương mại điện tử không bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Trong Dự thảo Luật lần này có bổ sung Điều 198b quy định chi tiết về trách nhiệm pháp lý liên quan đến quyền tác giả, quyền liên quan đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đã làm rõ được khá nhiều vấn đề và đảm bảo hài hòa được lợi ích chung giữa bên bán hàng, bên cung cấp dịch vụ trung gian và người dùng.

Trở lại với vụ kiện Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến quyền tác giả giữa First News – Trí Việt và Lazada (thuộc tập đoàn Recess – Alibaba). Cụ thể: First News – Trí Việt kiện Lazada “Vô trách nhiệm trong việc kiểm tra, quản lý hoặc cố tính làm ngơ để cho các gian hàng trên Lazada kinh doanh sách giả” vào tháng 09/2020 gây thiệt hại cho First News – Trí Việt vô cùng lớn. Đây cũng là thực tế chung của nhiều trang thương mại điện tử, không chỉ riêng Lazada, khi những website này chỉ là trung gian thương mại thực hiện việc truyền dẫn nội dung thông tin số hoặc cung cấp khả năng truy nhập đến nội dung thông tin số, khi Dự thảo Luật được thông qua, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian như Lazada, Shopee, Sendo… sẽ được miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường viễn thông và mạng internet công cộng. Tuy nhiên, cũng theo quy định này, các doanh nghiệp trung gian này vẫn phải có trách nhiệm triển khai các biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng viễn thông và mạng internet công cộng. 

Quy định bổ sung tại Dự thảo Luật nêu trên thực tế đã giải quyết được vấn đề vốn đang gây tranh cãi đó là trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp trung gian thương mại, mặc dù các doanh nghiệp này vẫn có trách nhiệm triển khai các biện pháp kỹ thuật và phối hợp với cơ quan nhà nước để bảo vệ quyền tác giả, tuy nhiên, họ không phải chịu trách nhiệm pháp lý liên quan đến quyền tác giả. Điều này có nghĩa là trách nhiệm pháp lý hoàn toàn là do các bên bán hàng trên các trang thương mại điện tử phải chịu trách nhiệm và quy định này phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP[3] về Thương mại điện tử. Trong trường hợp xâm phạm quyền tác giả xảy ra, khi được yêu cầu, các doanh nghiệp hoạt động thương mại điện tử hoàn toàn có thể thực hiện các biện pháp mạnh khi xóa bỏ người bán hàng trên trang của họ hoặc đình chỉ việc bán hàng của nhà bán hàng đó trong một khoảng thời gian nhất định… và các quy định này hoàn toàn có thể được đưa vào Hợp đồng giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian thương mại, cụ thể là các kênh thương mại điện tử và các bên bán hàng trên kênh thương mại điện tử đó.

2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về “sao chép” tác phẩm (khoản 10 Điều 4)
Theo quy định sửa đổi bổ sung tại khoản 10 Điều 4 Dự thảo Luật, Sao chép là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào. Quy định mới này đã phần nào khắc phục được những vướng mắc trong các vụ việc trước đây khi pháp luật không rõ ràng. Với quy định mới này, việc sao chép một phần tác phẩm cũng bị coi là hành vi sao chép. Tuy nhiên, để khẳng định một hành vi sao chép có bị coi là xâm phạm quyền tác giả hay không thì cần có sự giám định của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Nhưng cho đến nay pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về “định lượng” của phần sao chép như thế nào thì bị coi là xâm phạm quyền tác giả, dẫn đến khó khăn trong việc giám định hành vi xâm phạm quyền tác giả.

(Ảnh chụp từ website youtube.com)

Thực tế cho thấy có một số trường hợp cho dù phần “sao chép” (nếu có) nhưng rất ngắn từ một tác phẩm âm nhạc có trước (được coi là mờ nhạt trong tác phẩm này) lại trở thành phần đặc trưng và điểm nhấn của một tác phẩm âm nhạc khác; về định lượng gọi là “sao chép” (nếu có) thì rất ít nhưng lại có thể xảy ra một tranh chấp. Dựa vào các trường hợp đã từng xảy ra trên thực tế, việc nghiên cứu đưa ra được một “định lượng” để kết luận hành vi sao chép sẽ đặt ra một thách thức và khó khăn đối với các nhà làm luật. Ví dụ một tranh chấp trên thực tế đã xảy ra liên quan đến việc có nghi ngờ hành vi sao chép. Bài hát “Shape of you” phát hành năm 2017 có hơn 5,6 tỷ lượt view trên trang chia sẻ video YouTube do ca sĩ người Anh Ed Sheeren trình bày đã bị hai nhạc sỹ Sami Chokri và Ross O'Donoghue cáo buộc ca khúc có những điểm tương đồng với ca khúc "Oh Why" của họ được phát hành vào tháng 3/2015. Phân đoạn được hai nhạc sỹ Sami Chokri và Ross O'Donoghue cho rằng phần nhạc và lời “Oh I Oh I Oh I Oh” từ phút thứ 1.15 đến 1.30 (https://www.youtube.com/watch?v=JGwWNGJdvx8) trong bài hát Shape of You có tương đồng là đoạn từ giây thứ 39 đến giây thứ 62 cho phần lời “Oh why, oh why, oh why, oh” (https://www.youtube.com/watch?v=a3VDY6ttikM) trong bài hát “Oh Why”. Vào tháng 6/4/2022, ca sĩ Ed Sheeren đã được Thẩm phán Tòa thượng thẩm London Antony Zacaroli tuyên bố thắng kiện vì cho rằng "Shape of You" không mượn ý tưởng lời nhạc từ ca khúc khác. Theo đó, phán quyết khẳng định Ed Sheeran không cố ý hoặc vô tình “đạo nhái” hay cố ý “sao chép” ca khúc "Oh Why" khi sáng tác ca khúc này.

Ngược lại, nếu như việc “sao chép” đã là quá rõ ràng thì việc giám định xâm phạm quyền tác giả có thể không cần định lượng cũng có thể đưa ra kết luận. Ví dụ như trường hợp “sao chép” để vẽ tranh cổ động “Hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng” của họa sĩ DNH vào tháng 7/2020 đã được kết luận là sao chép một bức tranh cổ động khác về kỳ Thế vận hội năm 1980 được tổ chức tại Liên Xô. Liên tiếp, họa sĩ này còn “mượn” hay còn gọi là sao chép ý tưởng từ một bức tranh cổ động của một họa sĩ Ukraine công bố năm 2015 để sáng tạo tác phẩm bức tranh cổ động “Một Asean gắn kết và chủ động thích ứng”:


2.3. Bổ sung quy định giới hạn quyền đặc biệt liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy & Quốc ca (Điều 7)
Sau sự kiện không đáng có liên quan đến việc Quốc ca của Việt Nam trong trận đấu giữa đội tuyển Việt Nam – Lào trên sân vận động Singapore ngày 6/12/2021, trong các kênh trên nền tảng mạng xã hội, phần Quốc ca của Việt Nam đột nhiên bị tắt tiếng trong lễ chào cờ vì lý do bản quyền. 


(Nguồn ảnh: Internet)

Luật SHTT quy định về quyền tác giả và quyền liên quan riêng biệt nhau và hai quyền này độc lập, đều phải được tôn trọng. Tuy nhiên, việc bất kì một chủ sở hữu quyền liên quan đối với Quốc ca do Nhà nước đang nắm quyền tác giả (nhạc sĩ Văn Cao đã hiến tặng bài hát cho Nhà nước) và đăng ký bản quyền đối với bản thu âm Quốc ca (quyền liên quan) để độc quyền sử dụng trên nền tảng mạng xã hội và ngăn chặn bất kể bên thứ ba nào được sử dụng bài hát Quốc ca đã làm dậy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ từ người dân Việt Nam. Khi Quốc ca được vang lên, tất cả người dân Việt Nam có quyền được tự hào và đặt tay lên trái tim mình, hướng về lá cờ đỏ sao vàng và thể hiện một tình yêu thiêng liêng với Tổ quốc. Với quy định bổ sung này, khi quyết định sản xuất một video hoặc bản ghi âm Quốc ca, doanh nghiệp hay cá nhân đó cần xác định rằng họ không có quyền sử dụng độc quyền Quốc ca, tức là không được ngăn chặn cản trở việc phổ biến bản ghi âm, video đó đến công chúng. 

Việc kịp thời bổ sung quy định trong mục “Giới hạn quyền SHTT”, cụ thể là “Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca không được ngăn chặn, cản trở việc phổ biến, sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca” đã thỏa mãn được nhu cầu của người dân đối với thực tại vừa xảy ra và đảm bảo quyền và lợi ích của Nhà nước và cộng đồng.

2.4. Bổ sung ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả (Điều 25)
Điều 25 Dự thảo Luật đã quy định rõ về việc mặc dù không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Vấn đề này đã được quy định trong Nghị định 131/2013/NĐ-CP[4] về quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và nay cần được luật hóa. 

Ngoài ra, trong phần bổ sung về ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả, có một số nội dung mới như sau:

2.4.1. Quy định về trường hợp tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại không xâm phạm bản quyền nhưng không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép công cộng (Điểm a Khoản 1 Điều 25). 
Trong điều luật sửa đổi lần này cụm từ “...để giảng dạy của cá nhân” được thay bằng cụm từ “...để học tập của cá nhân...” và “không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép công cộng”. Thiết bị sao chép công cộng ở đây có thể hiểu là máy photocopy, máy scan công cộng (không phải dùng riêng cho một cá nhân)... Tuy nhiên, ở đây có một loại vấn đề cần phải làm rõ như: bằng cách nào để nhận biết được rằng bản sao chép để dùng nghiên cứu khoa học và học tập của cá nhân được sao chép từ phương tiện nào? Có phương án nào để xác định bản sao chép đó không được thực hiện từ thiết bị công cộng hay không? Hơn nữa, khi sao chép một cuốn sách để học tập hay nghiên cứu, cá nhân có thể sao chép bằng cách nào nếu không phải là photocopy hay scan lại cuốn sách đó, và có được bao nhiêu cá nhân có thể mua được máy photocopy và máy scan dùng cho cá nhân để có thể được sử dụng cho mục đích học tập hay nghiên cứu khoa học mà không vi phạm quy định này và làm thế nào để chứng minh được tài liệu đó là do cá nhân tự sao chép hay do người khác sao chép giúp? Nếu những vấn đề trên không được làm rõ thì quy định này vô hình chung có thể gây khó khăn trong việc học tập, nghiên cứu khoa học của cá nhân và trong việc thực thi quyền tác giả. 

Ngoài ra, cùng với việc sửa đổi bổ sung điều khoản này thì cũng cần có quy định về các biện pháp để quản lý chặt chẽ các cơ sở photocopy, nâng cao nhận thức và ý thức công chúng về quyền tác giả nhằm tạo điều kiện cho việc thực thi quy định về các ngoại lệ quyền tác giả này.

2.4.2. Quy định về việc sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong các bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy (điểm c Khoản 1 Điều 25). 
Ngoài việc quy định khi trích dẫn tác phẩm, người trích dẫn phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm, quy định này chỉ cho phép việc trích dẫn/minh họa phải “hợp lý”, nhưng chưa có quy định cụ thể như thế nào là “hợp lý”? 

Trên thực tế, việc “sử dụng hợp lý” và việc “sao chép” tác phẩm hoàn toàn có khả năng bị pha trộn và đôi khi có thể được hiểu là một trong một số trường hợp. Do đó, khi có quy định về sử dụng hợp lý thì nên chăng cần phải có thêm quy định về định lượng như thế nào được coi là hợp lý? 

Hiện nay, vì chưa có quy định thống nhất về “định lượng” trích dẫn/minh họa “hợp lý” nên việc quy định về “định lượng” thế nào thì bị coi là “đạo văn” sẽ do từng cơ sở đào tạo tự quy định. Cũng chính vì vậy nên tình trạng “đạo văn” ngày càng xảy ra thường xuyên, đặc biệt báo động là trong môi trường giáo dục gây ảnh hưởng đền quyền tác giả cũng như chất lượng giáo dục nói chung. Do đó, nếu đã có quy định về trích dẫn/minh họa hợp lý thì cũng nên có văn bản quy định cụ thể về độ hợp lý, có thể dựa trên tỷ lệ % dung lượng trích dẫn hoặc một cách tương tự khác để người trích dẫn/minh họa tự tin khai thác các nội dung có ích mà không xâm phạm đến quyền tác giả. 

2.4.3. Quy định ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật (Điều 25a).
Đây là quy định mới mang tính tiến bộ của Dự thảo Luật, thể hiện tư tưởng nhân văn, nhân đạo của hệ thống pháp luật nước ta trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật, bảo đảm cho người khuyết tật có cơ hội tiếp cận rộng rãi với các tác phẩm bằng các hình thức phù hợp và hiệu quả nhất mà không lo ngại xâm phạm quyền tác giả.

2.5. Sửa đổi, bổ sung giới hạn quyền tác giả (khoản 5 Điều 26)
Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 26 như sau: “Tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố của tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm kiếm được hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền tác giả thì thực hiện theo quy định của Chính phủ”.

Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn thực thi pháp luật về quyền tác giả hiện nay. Trong thực tế có nhiều trường hợp mặc dù rất muốn biết về nguồn gốc tác phẩm mình dự định sử dụng để có thể xin phép và để được trả tiền bản quyền để sử dụng tác phẩm đó nhưng rất tiếc không có cách nào để tìm ra tác giả/chủ sở hữu tác phẩm đó. Với quy định mới này thì các bất cập trên có thể được khắc phục một bước. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nhà nước cần quy định rõ về mức thu phí làm sao để hài hòa giữa quyền lợi của tác giả/chủ sở hữu, bên sử dụng tác phẩm và lợi ích chung của cộng đồng.


(Nguồn ảnh: Internet)

Quay trở lại với vụ việc ông Lê Mạnh Hùng, Bùi Đức Tiến, Đặng Ngọc Sâm Thương kiện các tác giả GS Võ Quý - PGS. TS Nguyễn Lân Hùng Sơn về hành vi vi phạm bản quyền khi sử dụng một số bức ảnh của các nhiếp ảnh gia này minh họa cho cuốn sách “Chim Việt Nam” ra mắt tháng 5/2017 mà họ mà không được xin phép, không được ghi tên trong sách và cũng không được trả tiền bản quyền. Trong vụ việc này, các tác giả đã thừa nhận sử dụng ảnh trên mạng không rõ nguồn gốc và không xin phép tác giả, chú thích nguồn ảnh, do đó cuốn sách này đã bị thu hồi. Ở đây có lẽ các tác giả cuốn sách “Chim Việt Nam” đã vô ý hoặc chưa nắm rõ quy định về quyền tác giả nên đã không đề tên tác giả của các bức ảnh in trong cuốn sách. Hoặc cũng có thể họ không tìm được tác giả của những bức ảnh đăng trên mạng vì đôi khi chính tác giả của những bức ảnh đó cũng không đề tên mình. Nếu quy định này được bổ sung sớm hơn thì có lẽ điều đáng tiếc trên đã không xẩy ra. Việc thu hồi cuốn sách “Chim Việt Nam” là bài học đắt giá đối với các tác giả cuốn sách về việc tôn trọng quyền tác giả. Tuy nhiên, đây cũng là một mất mát lớn đối với công chúng và xã hội khi không có cơ hội được tiếp cận với công trình nghiên cứu công phu và có giá trị này. 

2.6. Bổ sung quy định quyền tác giả là căn cứ để từ chối bảo hộ nhãn hiệu (điểm p khoản 2 Điều 74) 
Dự thảo Luật đã bổ sung điểm p khoản 2 Điều 74 quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Cụ thể là nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu chứa bản sao tác phẩm, dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên gọi, hình ảnh của nhân vật, hình tượng trong tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả của người khác đã được biết đến một cách rộng rãi trước ngày nộp đơn, trừ trường hợp được phép của chủ sở hữu tác phẩm đó.

Theo quy định hiện hành, quyền tác giả được xác lập trên cơ sở phát sinh tác phẩm kể cả trong trường hợp không được đăng ký với Cục bản quyền tác giả[5]. Hay nói cách khác, Cục bản quyền tác giả chỉ có chức năng ghi nhận, không có chức năng thẩm định, tức là bất kì tác phẩm nào khi được nộp đơn yêu cầu đăng ký quyền tác giả, nếu đáp ứng về hình thức hồ sơ thì tác phẩm sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Vậy nên việc quy định nhãn hiệu sẽ bị coi là không có khả năng phân biệt (tức là bị từ chối bảo hộ) nếu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên gọi, hình ảnh nhân vật, hình tượng tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả của người khác đã được biết đến rộng rãi trước ngày nộp đơn là chưa phù hợp, bởi lẽ:

- Cục bản quyền tác giả chưa có hệ thống tra cứu đầy đủ dữ liệu về các tác phẩm đăng ký, hiện chỉ hiển thị tên tác phẩm, chưa có hình ảnh đăng ký. Vậy, các chủ đơn đăng ký nhãn hiệu hoàn toàn chưa có cơ sở để có thể tra cứu/kiểm tra về việc nhãn hiệu mà họ dự định đăng ký có trùng hay tương tự gây nhầm lẫn với tác phẩm thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả hay không? Mặc dù chủ đơn có thể kiểm tra thông tin trên mạng internet, nhưng thực tế quá khó để tìm từ khóa để hiển thị được kết quả tra cứu mà họ mong muốn, đặc biệt là đối với các nhãn hiệu hình ảnh nhân vật hoặc hình tượng tác phẩm;

- Chưa có hệ thống dữ liệu thống nhất giữa Cục bản quyền tác giả và Cục SHTT để có thể thực hiện công tác thẩm định thông suốt giữa hai cơ quan này. Quy định này được bổ sung sẽ tiếp tục gặp phải khó khăn tương tự như tên thương mại và nhãn hiệu hiện vẫn còn đang gặp phải nhiều bất cập hiện nay vì cơ sở dữ liệu của các cơ quan thẩm định cấp quyền chưa đồng bộ và thống nhất với nhau;

- Việc xác định một tác phẩm đã được biết đến rộng rãi trước ngày nộp đơn gây khó khăn đối với Cục Sở hữu trí tuệ khi thẩm định đơn nhãn hiệu bởi cơ quan này không có chức năng giám định về ngày hoàn thành hay ngày công bố tác phẩm đã đăng ký với Cục bản quyền. Bởi, ngày hoàn thành và ngày công bố tác phẩm do Cục bản quyền ghi nhận dựa trên lời khai của tác giả và chủ sở hữu, không qua thẩm định. Ngoài ra, phần nhiều trên thực tế các chủ sở hữu nhãn hiệu không nộp đơn đăng ký nhãn hiệu ngay tại thời điểm bắt đầu sử dụng nhãn hiệu, mà họ thường nộp đơn đăng ký nhãn hiệu sau một thời gian đã sử dụng. Vậy, việc quy định này có còn phù hợp nếu chủ sở hữu nhãn hiệu với ngày nộp đơn muộn hơn thời điểm mà tác phẩm được biết đến rộng rãi chứng minh được tác phẩm mà đang được cho là được sử dụng trước và được biết đến rộng rãi được sử dụng sau nhãn hiệu mà mình đã nộp đơn?

- Quyền đối với nhãn hiệu, theo quy định, được xác lập theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên, không phải sử dụng đầu tiên. Trong khi, quyền đối với tác phẩm là đối tượng bảo hộ của quyền tác giả được xác lập trên cơ sở ngày hoàn thành tác phẩm, tương tự và gần với nguyên tắc sử dụng đầu tiên. Viêc từ chối hai đối tượng với nhau mà nguyên tắc xác lập quyền khác nhau có được coi là phù hợp hay không?

- Dự thảo Luật quy định “…thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả của người khác đã được biết đến rộng rãi trước ngày nộp đơn”, nhưng lại không có quy định thế nào là tác phẩm đã được “biết đến rộng rãi”. Vậy, khi thẩm định nhãn hiệu, việc biết đến rộng rãi đối với bất kì một tác phẩm nào thuộc phạm vi bảo hộ của quyền tác giả hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của thẩm định viên thẩm định đơn nhãn hiệu. Đây hiện cũng đang là bất cập trong quá trình thẩm định đơn nhãn hiệu đối với việc ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu được nhận biết, sử dụng rộng rãi vì hiện tại Cục sở hữu trí tuệ chưa có hệ thống ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng mà việc ghi nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoàn toàn phụ thuộc vào hiểu biết và nhận biết của các thẩm định viên đơn nhãn hiệu. Nếu như điều khoản này được thông qua, chắc chắn trong quá trình xử lý đơn nhãn hiệu sẽ phải gặp thêm nhiều bất cập và khó khăn, không chỉ cho chủ đơn mà còn khó khăn cho Cục sở hữu trí tuệ và Cục bản quyền tác giả trong quá trình xem xét và thẩm định đơn đăng ký.

Để quy định bổ sung này mang tính khả thi thì rất nhiều cơ sở dữ liệu cần phải hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất ở cấp độ quốc gia, nhằm tạo thuận lợi cho việc tra cứu, thẩm định và cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả và đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam.

KẾT LUẬN
Những nội dung sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Luật SHTT (sửa đổi) liên quan đến bảo hộ quyền tác giả về cơ bản đã khắc phục được những bất cập trên thực tế hiện nay, đặc biệt là vấn nạn xâm phạm quyền tác giả trên môi trường số, vấn đề sử dụng tài liệu sao chép trong thư viện, sử dụng tác phẩm đối với người khuyết tật và các ngoại lệ xâm phạm quyền tác giả khác... Dự thảo Luật SHTT (sửa đổi) cũng đề cao nguyên tắc bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể gồm người sáng tạo, bên sử dụng, công chúng thụ hưởng; bảo đảm quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân trong sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ, tiếp cận các giá trị văn hóa, nghệ thuật, khoa học, thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; Với những nội dung sửa đổi bổ sung này, cũng với những góp ý hoàn thiện của các chuyên gia, nhà khoa học, luật sư và những người làm thực tiễn, Luật SHTT (sửa đổi) chắc chắn sẽ xác lập hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng hơn để khuyến khích các tổ chức, cá nhân sáng tạo, đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu trong các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát triển mạnh mẽ trong thời đại công nghiệp 4.0; đồng thời bảo hộ tốt hơn quyền sở hữu trí tuệ của các đối tượng liên quan theo quy định của pháp luật. /. 

LS. Dương Thị Vân Anh - Công ty Luật TNHH Vietthink

************

Chú thích

[1] Khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012

[2] Khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL ngày 19/6/2012

[3] Điều 37. Trách nhiệm của người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử: 6. Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử.

[4] Điều 9. Hành vi xâm phạm quyền đứng tên, đặt tên tác phẩm 1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng tác phẩm mà không nêu tên thật, bút danh tác giả, tên tác phẩm hoặc nêu không đúng tên thật hoặc bút danh tác giả, tên tác phẩm trên bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.
Điều 21. Hành vi xâm phạm quyền được giới thiệu tên của người biểu diễn 1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi không nêu tên hoặc nêu không đúng tên người biểu diễn trên bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng.

[5] Điều 6 Luật SHTT: Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ 
1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
2. Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.