Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) ban hành Công văn số 3854/VKSTC-V9 ngày 09/9/2024 về việc giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó, Công văn giải đáp những nội dung về việc thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) và các văn bản pháp luật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án; về việc thực hiện Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015); về việc thực hiện Luật Đất đai và về việc thực hiện hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. VKSNDTC đã giải đáp, hướng dẫn một số khó khăn, vướng mắc như sau:
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử
VKSND tỉnh Lâm Đồng cho rằng hiện nay, việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan quy định tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 chưa được hướng dẫn. Trên thực tế, có Tòa án mặc định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn nên đương sự thường gửi đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết vụ án.
Giải đáp vướng mắc trên VKSNDTC cho biết: Tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 quy định các trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử là “vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 đã quy định rõ sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan.
Tại khoản 3 Điều 14 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTDS 2004 mà thời hạn gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại không quá 05 ngày) mà Thẩm phán được phân công giải quyết thấy rằng vụ án phức tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định tại khoản 1 Điều 179 BLTTDS 2004, thì cần phải báo ngay cho Chánh án Tòa án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Mặc dù Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 đã hết hiệu lực nhưng nếu quy định về vấn đề này của BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và BLTTDS 2015 không có điểm gì khác biệt thì vẫn có thể tham khảo để áp dụng.
Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 chưa có văn bản hướng dẫn thì có thể tham khảo áp dụng Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012. Việc mặc định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm cả thời hạn gia hạn đối với vụ án không thuộc trường hợp có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan là không đúng.
2. Xác định ngày xác lập việc ủy quyền lập ở nước ngoài
Tại câu 14 của Công văn có trường hợp: Hợp đồng ủy quyền được lập ở nước ngoài, do đương sự ở nước ngoài ủy quyền cho người ở Việt Nam tham gia tố tụng giải quyết vụ án tại Tòa án Việt Nam không ghi thời hạn ủy quyền. Điều 563 BLDS 2015 quy định thời hạn ủy quyền là 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Vậy ngày nào là ngày xác lập việc ủy quyền (ngày người ủy quyền ký hợp đồng, ngày người nhận ủy quyền ký hợp đồng, ngày cơ quan chức năng của nước ngoài xác nhận hay ngày hợp pháp hóa lãnh sự)?
VKSNDTC giải đáp trường hợp này như sau: Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền không ghi thời hạn uỷ quyền thì vẫn có thể xác định thời hạn ủy quyền trên cơ sở các công việc được ủy quyền mà các bên đã thỏa thuận, thống nhất trong hợp đồng (thời hạn ủy quyền bắt đầu từ thời điểm thực hiện công việc đầu tiên và kết thúc khi hoàn thành công việc cuối cùng được ủy quyền trong hợp đồng). Trường hợp này có thể xác định là các bên đã có thỏa thuận về thời hạn ủy quyền.
Tại Điều 563 BLDS 2015 quy định: “… nếu không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.”
Theo khoản 4 Điều 400 BLDS 2015 quy định “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay chính thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản”. Xác lập việc ủy quyền là do ý chí của các bên quyết định nên thời điểm xác lập việc ủy quyền là thời điểm giao kết hợp đồng ủy quyền, là thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng ủy quyền.
Tuy nhiên, Hợp đồng ủy quyền được lập ở nước ngoài với nội dung tham gia tố tụng giải quyết vụ án tại Tòa án Việt Nam để được công nhận và sử dụng cần làm thủ tục Hợp pháp hóa lãnh sự. Quy định tại khoản 2 Điều 2, Điều 3 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính Phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự thì “Hợp pháp hóa lãnh sự” là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên giấy tờ, tài liệu của nước ngoài để giấy tờ, tài liệu đó được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, không bao hàm chứng nhận về nội dung và hình thức của giấy tờ, tài liệu.
Hợp pháp hóa lãnh sự là điều kiện để Tòa án Việt Nam chấp nhận việc ủy quyền, cho phép người được ủy quyền được tham gia tố tụng chứ không phải ngày giao kết hợp đồng ủy quyền. Như vậy, hợp đồng ủy quyền có thời hạn 01 năm nếu không có thỏa thuận, ngày xác lập việc ủy quyền lập ở nước ngoài sau khi được Hợp pháp hóa lãnh sự.
3. Điều kiện khởi kiện đối với tranh chấp quyền sử dụng đất
Tại câu 15 trong Công văn có nêu: Đối với tranh chấp quyền sử dụng đất phải đáp ứng điều kiện khởi kiện đã qua hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo Điều 202 Luật Đất đai 2013, tuy nhiên trong thực tế có trường hợp hòa giải không có đủ thành phần theo quy định của pháp luật. Có 02 quan điểm về vấn đề này như sau:
Quan điểm thứ nhất, việc hòa giải thiếu thành phần hòa giải là không đủ điều kiện khởi kiện nên trả lại đơn khởi kiện cho đương sự.
Quan điểm thứ hai, Điều 202 Luật đất đai năm 2013 và Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (“Nghị quyết 04”) chỉ quy định điều kiện khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất là đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp, việc trả lại đơn khởi kiện với lý do việc hòa giải thiếu thành phần là không đúng.
VKSNDTC giải đáp vướng mắc trên như sau: Tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04 quy định: “2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.”
Tại khoản 27 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 quy định:
“27. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 như sau:
b) Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải. Thành phần Hội đồng gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; người có uy tín trong dòng họ, ở nơi sinh sống, nơi làm việc; người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việc; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;”
Mặc dù quy định tại điểm b khoản 27 Điều 1 Nghị định 148 đã hết hiệu lực, thành phần hòa giải tranh chấp đất đai đã được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 235 Luật đất đai 2024.
Theo quy định trên thì Hội đồng có thành phần rất linh hoạt, do đó có một số thành phần Hội đồng không mang tính bắt buộc. Hiện nay, pháp luật không quy định nếu Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai không đủ thành phần thì cuộc họp hòa giải không được tiến hành hay việc hòa giải không có hiệu lực.
Đối với tranh chấp đất đai cần qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp vì đây thuộc loại tranh chấp về quyền sở hữu (quyền sử dụng đất thuộc về ai) nên vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai tại nơi có đất là rất quan trọng (là nơi quản lý hồ sơ, tài liệu nguồn gốc đất, nắm được quá trình sử dụng đất, những người sử dụng đất,…), đây là cơ sở để Tòa án có được thông tin để giải quyết đúng đắn vụ án. Hơn nữa, việc hoà giải nhằm đến làm rõ quan điểm, ý chí, nguyện vọng của các bên, giúp các bên thoả thuận, thống nhất được với nhau để chấm dứt tranh chấp. Do vậy, VKSNDTC cho rằng khi các bên đã hoà giải không thành và khởi kiện thì không nên đặt nặng những vấn đề mang tính hình thức của việc hoà giải mà làm chậm trễ việc giải quyết tranh chấp của các bên. Vì vậy, việc hòa giải tại địa phương không đảm bảo hình thức theo quy định mà trả lại đơn khởi kiện với lý do việc hòa giải thiếu thành phần là không đúng.
Trên đây là một số vướng mắc được VKSNDTC giải đáp về việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình để các VKSND tham khảo, vận dụng trong quá trình thực hiện công tác. Ngoài ra, còn nhiều giải đáp hữu ích của VKSNDTC giải đáp vướng mắc về hợp đồng ủy quyền, xác minh, thu thập chứng cứ, tranh chấp quyền sử dụng đất, nghĩa vụ chịu án phí dân sự,… Công văn giải đáp của VKSNDTC đã kịp thời giúp giải quyết không ít những khúc mắc, khó khăn gặp phải trong quá trình giải quyết vụ án.
TLLS. Ma Thuỳ Linh - Công ty Luật TNHH Vietthink