Có nhất thiết phải đăng ký quyền tác giả ở nước ngoài khi tác phẩm đã được công bố/ghi nhận đăng ký tại Việt Nam để được ghi nhận quyền tác giả?

Trong quá trình tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực quyền tác giả, tác giả bài viết thường xuyên nhận được câu hỏi rằng tác phẩm của họ đã được công bố và ghi nhận đăng ký tại Việt Nam, hiện đang mong muốn đưa tác phẩm sang một quốc gia khác nhằm mục đích thương mại và họ muốn đăng ký quyền tác giả của họ tại tất cả các quốc gia đó để được ghi nhận quyền tác giả. Câu hỏi đặt ra là, họ có thể làm được việc đó không và nếu có thì phương án lựa chọn để tiến hành công việc này một cách hiệu quả và tối ưu chi phí là gì? Câu hỏi này chắc hẳn đã được rất nhiều người quan tâm và tìm hiểu, tuy nhiên, để có được câu trả lời cho câu hỏi này, trước tiên, hãy tìm hiểu quyền tác giả được bảo hộ quốc tế theo cơ chế như thế nào và có những quy định quốc tế nào điều chỉnh quyền của tác giả/chủ sở hữu.
Công ước Berne về bảo vệ tác phẩm văn học và nghệ thuật là công ước bản quyền đa phương lâu đời nhất và được thông qua vào năm 1886. Công ước Berne tạo nền tảng của bản quyền và đã được sửa đổi nhiều lần để phù hợp với những phát triển công nghệ mới, cụ thể là đã được sửa đổi và bổ sung tại Paris vào năm 1896, tại Berlin vào năm 1908, tại Berne vào năm 1914, tại Rome vào năm 1928, tại Brussels vào năm 1948, tại Stockholm vào năm 1967 và tại Paris vào năm 1971 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến nay Công ước Berne có khoảng 181 quốc gia thành viên
[1] và Việt Nam được ghi nhận là thành viên từ 26/10/2004.

Sau này, các Công ước và thỏa thuận quốc tế liên quan đến quyền tác giả tiếp tục có hiệu lực như Công ước bản quyền toàn cầu (UCC) có hiệu lực năm 1952; Công ước Rome năm 1961; Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm 1994; Hiệp ước quyền tác giả WCT năm 1996 đã cố gắng đưa quyền tác giả phù hợp với những phát triển kỹ thuật số mới nhất của thời đại khi đó, vốn không được quy định trong Hiệp định TRIPS; Hiệp ước về Biểu diễn và Bản ghi âm của WIPO (WPPT) đã được thông qua nhằm đưa một số quyền liên quan phù hợp với những phát triển kỹ thuật số mới nhất cũng vào năm 1996, là một phần của WCT… Trong số các Công ước và thỏa thuận quốc tế này, có thể nói quan trọng nhất và có sự ảnh hưởng nhiều nhất đến quyền tác giả trên phạm vi toàn cầu là Công ước Berne, TRIPS và WCT.


 
Mục đích của Công ước Berne là nhằm hài hòa, ở một mức độ nhất định, luật về quyền tác giả của tất cả các thành viên tham gia ký kết bằng cách cung cấp các tiêu chuẩn bảo vệ tối thiểu cho tác giả, đảm bảo rằng các tác phẩm được bảo vệ quyền tác giả theo nguyên tắc quốc tế tại tất cả các quốc gia là thành viên của Công ước. Tuy nhiên, các sáng tạo của trí tuệ, để được bảo hộ quyền tác giả, phải đáp ứng các quy định của Công ước Berne cũng như quy định của các quốc gia thành viên. 
Theo quy định của Công ước Berne, việc bảo hộ quyền tác giả tại bất kì quốc gia thành viên nào đều phải tuân theo 03 nguyên tắc chính:
 
1. Nguyên tắc đối xử quốc gia
Nguyên tắc đối xử quốc gia có nghĩa là để các tác giả nước ngoài (tác giả của các quốc gia khác, là thành viên của Công ước Berne) sẽ được đối xử như công dân trong nước đối với quyền tác giả. Nguyên tắc này được đưa ra để ngăn chặn sự phân biệt đối xử đối với chủ sở hữu quyền tác giả nước ngoài do một số quốc gia thực hiện nhằm tạo điều kiện tiếp cận các tài liệu có bản quyền từ các quốc gia nước ngoài mà không bảo vệ quyền của tác giả gốc.
Điều 5.1 Công ước Berne quy định, đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác giả được hưởng quyền tác giả ở tất cả các quốc gia thành viên không phải là Quốc gia gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành cho công dân của mình trong hiện tại và trong tương lai cũng như những quyền mà Công ước này đặc biệt quy định.
Vậy, Quốc gia gốc là gì? Quốc gia gốc được quy định tại Điều 5.4 Công ước Berne như sau:
- Nếu tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại một quốc gia thành viên, quốc gia gốc được xác định là quốc gia đó;
- Nếu tác phẩm được đồng thời được công bố tại nhiều quốc gia thành viên, quốc gia gốc được xác định là quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất;
- Nếu tác phẩm đồng thời được công bố tại một quốc gia là thành viên và một quốc gia không phải thành viên, quốc gia gốc được xác định là quốc gia thành viên;
- Nếu tác phẩm chưa được công bố hoặc đã được công bố lần đầu tiên tại một quốc gia không phải thành viên, hoặc quốc gia thành viên mà tác giả mang quốc tịch:
  •  Khi tác phẩm là tác phẩm điện ảnh và nhà sản xuất của tác phẩm có trụ sở hoặc địa chỉ thường trú tại một quốc gia thành viên, quốc gia gốc được xác định là quốc gia này;
  •  Khi tác phẩm là tác phẩm kiến trúc và được xây dựng/dựng lên tại một quốc gia thành viên hoặc các tác phẩm nghệ thuật khác được kết hợp vào với một tòa nhà, hoặc kết cấu khác tại một quốc gia thành viên, quốc gia gốc được xác định là quốc gia này.
Như vậy, theo quy định tại Điều 5.1, có thể đưa ra một vài nhận định như sau về nguyên tắc đối xử quốc gia:
- Chỉ có những tác phẩm đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne mới được áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia;
- Chỉ có những tác giả của các tác phẩm được bảo hộ theo Công ước Berne mới được hưởng quyền đối xử quốc gia, cụ thể là (i) tác giả có quốc tịch hoặc địa chỉ thường trú tại quốc gia thành viên hoặc (ii) mặc dù tác giả không có quốc tịch hoặc không có địa chỉ thương trú tại quốc gia thành viên nhưng lần đầu tiên công bố tác phẩm tại quốc gia thành viên;
- Tất cả các tác giả đủ điều kiện được áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia đều được hưởng toàn bộ các quyền quốc gia như đã được cấp cho các tác giả quốc gia đó.
Để có thể dễ dàng hiểu hơn về nguyên tắc đối xử quốc gia, một số ví dụ được đưa ra như sau:
- Nếu một tác giả người Việt Nam công bố lần đầu tiên một tác phẩm viết là một bài thơ tại Việt Nam, tác giả người Việt Nam được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia tại tất cả các quốc gia thành viên thuộc Công ước Berne[2] ;
- Nếu một tác giả người Việt Nam công bố lần đầu tiên một tác phẩm viết là một bài thơ tại Pháp, tác giả người Việt Nam được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia tại Pháp (Việt Nam và Pháp đều là thành viên Công ước Berne);
- Nếu một tác giả không có quốc tịch là một trong những thành viên của Công ước Berne công bố tác phẩm viết là một bài thơ tại một quốc gia không phải thành viên, tác giả không được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia;
- Nếu một tác giả không phải quốc tịch Việt Nam nhưng lại công bố lần đầu tiên tác phẩm viết là một bài thơ tại Việt Nam là nơi mà tác giả đang sinh sống hoặc lưu trú thì được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia;
- Nếu một tác giả không có quốc tịch là một trong những thành viên của Công ước Berne công bố lần đầu tiên tác phẩm viết là một bài thơ tại Việt Nam (là một thành viên của Công ước) thì được hường nguyên tắc đối xử quốc gia;
- Nếu một tác giả không có quốc tịch là một trong những thành viên của Công ước Berne công bố lần đầu tiên tác phẩm viết là một bài thơ đồng thời, cùng một thời điểm tại Ý và Canada (hai quốc gia đều là thành viên Công ước Berne), tác giả được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia và được ghi nhận thời hạn bảo hộ của quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn hơn là theo quy định của Canada.
2. Nguyên tắc bảo hộ tự động
Nguyên tắc bảo hộ tự động, theo quy định tại Điều 5.2 Công ước Berne, việc được hưởng quyền tác giả không bị ràng buộc và phụ thuộc vào bất kì thủ tục nào. Tức là, tác giả có thể yêu cầu bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm tại bất kỳ quốc gia thành viên nào khác ngoài quốc gia xuất xứ của tác phẩm mà không cần phải tuân thủ bất kỳ thủ tục nào do quốc gia này cung cấp, chẳng hạn như ghi nhận/đăng ký tác phẩm vào sổ đăng ký quốc gia hoặc đưa ra bất kỳ yêu cầu bảo vệ nào đối với các bản sao của tác phẩm. Hay nói cách khác, việc bảo hộ quyền tác giả là TỰ ĐỘNG.
Điều 5.2 Công ước Berne quy định “Việc hưởng và thực hiện các quyền này không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục nào; việc hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không tùy thuộc vào việc tác phẩm có được bảo hộ hay không ở Quốc gia gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài những quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện pháp khiếu nại dành cho tác giả trong việc bảo hộ quyền của mình sẽ hoàn toàn do quy định của Luật pháp của nước công bố bảo hộ tác phẩm đó.”
Tuy nhiên, nguyên tắc bảo hộ tự động không cản trở các hệ thống đăng ký tự nguyện tại các quốc gia thành viên. Tại Việt Nam và rất nhiều quốc gia khác, mặc dù quyền tác giả không bắt buộc phải đăng ký, nhưng Cục bản quyền tác giả vẫn ghi nhận các đơn đăng ký quyền tác giả theo mong muốn của chủ sở hữu/tác giả… để cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả nếu được yêu cầu.
Trên thực tế, với kỷ nguyên số hiện nay, các tác phẩm được lưu hành một cách dễ dàng và nhanh chóng dẫn đến việc có thể bị sửa đổi hoặc sao lưu không mất phí, thậm chí với chất lượng vô cùng tốt. Việc đăng ký tự nguyện, về bản chất là để tác giả/chủ sở hữu dễ dàng chứng minh quyền chủ sở hữu của mình đối với tác phẩm, và cũng là để những người đang mong muốn sử dụng tác phẩm có thể dễ dàng tìm thấy chủ sở hữu để liên hệ xin cấp quyền sử dụng và trả tiền bản quyền. Hơn nữa, việc ghi nhận bảo hộ quyền tác giả trên không gian số còn giúp chủ sở hữu tránh được những hành vi xâm phạm quyền có thể xảy ra khi tác phẩm của mình bị sửa đổi và sao chép trên chính môi trường này. Việt Nam là một trong những quốc gia áp dụng việc đăng ký tự nguyện. Ngoài việc đăng ký tự nguyện, ở một số quốc gia khác có thể áp dụng các hình thức khác để được ghi nhận quyền chủ sở hữu như đăng trên những website có tính phí để chứng minh quyền chủ sở hữu, hoặc tác giả/chủ sở hữu tự gửi thư/email cho chính mình và để tình trạng là thư chưa mở cho đến khi phải dùng đến (xảy ra tranh chấp…) về nội dung tác phẩm để chứng minh quyền của mình…
Một trường hợp điển hình về việc xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam có thể kể đến gần đây là trường hợp của Đài truyền hình Việt Nam, là tổ chức sản xuất rất nhiều tác phẩm ghi hình, nổi bật như chương trình Táo quân, các chương trình thực tế có độ phủ sóng vô cùng rộng và rất nhiều khán giả theo dõi như Anh trai vượt ngàn chông gai, Chị đẹp… đã bị cắt ghép, thêm, bớt nội dung và đăng trên các mạng xã hội hoặc các trang mạng khác để bật chế độ kiếm tiền và không hề xin phép chủ sở hữu là Đài truyền hình Việt Nam; thậm chí các bên sửa đổi cắt ghép còn đăng ký xác nhận quyền chủ sở hữu với các trang mạng mà họ đăng như Youtube chẳng hạn, dẫn đến chính Đài truyền hình Việt Nam cũng bị đánh gậy bản quyền khi đăng chính các tác phẩm mà mình là chủ sở hữu trên Youtube. Đây rõ ràng là thực tế hiện nay, và để giải quyết vấn đề này, trong môi trường số hiện nay, không có cách nào khác là các chủ sở hữu, ngoài việc đăng ký quyền tác giả với Cục bản quyền tác giả (lựa chọn đăng ký), bắt buộc phải tự bảo vệ mình bằng cách đăng ký tất cả các tác phẩm trên không gian số tất cả các tác phẩm sẽ được lưu hành trước hoặc ngay sau khi được công bố tới công chúng. Điều này sẽ bảo vệ chính tác giả/chủ sở hữu khỏi các tình huống dở khóc dở cười như đã xảy ra trên thực tế.

3. Nguyên tắc bảo hộ độc lập
Nguyên tắc bảo hộ độc lập, theo quy định tại Điều 5.2 Công ước Berne, cho phép tác giả/chủ sở hữu được hưởng và thực hiện quyền tác giả đối với một tác phẩm tại một quốc gia thành viên một cách độc lập với sự tồn tại của việc bảo hộ tác phẩm đó tại Quốc gia gốc của tác phẩm. Hay nói cách khác, nguyên tắc “bảo hộ độc lập” khiến cho việc bảo vệ quyền tác giả ở một quốc gia thành viên không phụ thuộc vào việc tác phẩm đó có được bảo vệ quyền tác giả ở Quốc gia gốc hay không.
Việc bảo hộ tại Quốc gia gốc do Luật pháp của Quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi Quốc gia gốc không phải là thành viên của Công ước này thì tác giả có tác phẩm công bố tại quốc gia đó được hưởng những quyền như các tác giả là công dân của nước đó.
Nguyên tắc này, cùng với nguyên tắc bảo hộ tự động đã tạo lợi thế đáng kể cho tác giả/chủ sở hữu, làm tăng cường đáng kể mức độ bảo vệ đối với một tác phẩm trên phạm vi toàn cầu.
Để hiểu rõ hơn, ví dụ việc bảo vệ quyền tác giả của một tiểu thuyết Trung Quốc tại Croatia không phụ thuộc và không liên quan đến việc tiểu thuyết đó có được bảo hộ quyền tác giả tại Trung Quốc hay không (cả Trung Quốc và Croatia đều là thành viên của Công ước Berne).
4. Tóm lại, có thể tóm tắt lại 03 nguyên tắc chính trong việc bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne như sau:
Nguyên tắc “Đối xử quốc gia” có nghĩa là các tác giả nước ngoài (tác giả của các quốc gia là thành viên của Công ước Berne khác) sẽ nhận được sự đối xử về quyền tác giả giống như công dân trong nước;
Nguyên tắc “Bảo hộ tự động” ngăn cản các quốc gia là thành viên của Công ước Berne đưa ra điều kiện bảo hộ quyền tác giả dựa trên bất kỳ thủ tục nào; và
Nguyên tắc “Bảo hộ độc lập” khiến việc bảo hộ quyền tác giả tại một quốc gia là thành viên của Công ước Berne không phụ thuộc vào việc tác phẩm đó có được bảo hộ quyền tác giả tại Quốc gia gốc hay không.
Phải khẳng định rằng việc đưa ra các nguyên tắc nêu trên là một bước tiến đáng kể để bảo vệ quyền tác giả trên phạm vi toàn cầu, ngăn chặn đáng kể các hành vi xâm phạm quyền tác giả có thể dễ dàng gặp phải và nhìn thấy, các hành vi đối xử không minh bạch và không công bằng giữa các quốc gia làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tác giả, ví dụ như:
- Các quốc gia phân biệt đối xử với các tác giả nước ngoài với mục đích tạo điều kiện cho việc sao chép và/hoặc phân phối các tác phẩm của những tác giả đó mà không xin phép tác giả/chủ sở hữu thật sự tại quốc gia đó, gây thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến tác giả/chủ sở hữu thật sự của tác phẩm;
- Một số quốc gia buộc các tác giả/chủ sở hữu phải đăng ký quyền tác giả mới được ghi nhận quyền tác giả tại các quốc gia đó nếu không tác phẩm sẽ thuộc về công cộng gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền tác giả nói chung trên thế giới và vô hình chung sẽ làm tác phẩm được sử dụng mà không cần phải được xin phép (vì chưa được đăng ký), gây phương hại trực tiếp cho tác giả/chủ sở hữu;
- Nếu các quốc gia từ chối bảo vệ các tác phẩm của quốc gia khác dựa trên luật của Quốc gia gốc dẫn đến việc đối xử không công bằng và trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của tác giả/chủ sở hữu…
Như vậy, sau khi đọc bài viết, người đọc hoàn toàn đã có câu trả lời cho câu hỏi đặt ra ở trên. Theo ba nguyên tắc kể trên, vì Việt Nam là thành viên của Công ước Berne, một tác phẩm đã được công bố và bảo hộ tại Việt Nam, tác phẩm hoàn toàn được bảo hộ tại các quốc gia là thành viên của Công ước Berne (181 quốc gia). Ngoài ra, việc bảo hộ tại các quốc gia thành viên của Công ước Berne không phụ thuộc vào việc bảo hộ tác phẩm tại Việt Nam, mà theo luật của quốc gia được bảo hộ quyền tác giả./.

LS.SHTT Dương Thị Vân Anh – Công ty Luật TNHH Vietthink

Tài liệu tham khảo:
[1]https://www.wipo.int/wipolex/en/treaties/ShowResults?search_what=C&treaty_id=15
[2]Điều 3.1 Công ước Berne: Công ước này bảo hộ a) Tác phẩm của các tác giả là công dân của một trong những nước là thành viên của Liên hiệp dù những các tác phẩm của họ đã công bố hay chưa; b) Tác phẩm của các tác giả không phải là công dân của một trong những nước là thành viên của Liên hiệp mà công bố lần đầu tiên ở một trong những nước thành viên của Liên hiệp, hay đồng thời công bố ở một nước trong và một nước ngoài Liên hiệp.
Điều 5.1 Công ước Berne:  Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các tác giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là Quốc gia gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành cho công dân của mình trong hiện tại và trong tương lai cũng như những quyền mà Công ước này đặc biệt quy định.


#quyentacgia #copyright #ip #berneconvention #berne