Tin Liên Quan
Quay lại Bản in
Cỡ chữ

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn mới giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình

Mới đây, Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình (“Nghị quyết 01/2024”). Nghị quyết hướng dẫn một số quy định như quyền yêu cầu giải quyết ly hôn, thuận tình ly hôn, ly hôn đơn phương, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, giải quyết việc nuôi con khi ly hôn,... Nghị quyết này gồm 12 Điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024, trong đó hướng dẫn cụ thể một số nội dung sau:

1. Hướng dẫn quyền yêu cầu giải quyết ly hôn tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình (“Luật HN&GĐ”) năm 2014 như sau: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

Nội dung này đã được quy định tại Luật HN&GĐ các thời kỳ và đã được hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000 ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 (“Nghị quyết 02/2000”). Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn khi vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi và không phân biệt có thai với ai và bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai. 

Quy định nêu trên cũng được hướng dẫn mới tại Điều 2 Nghị quyết 01/2024 cụ thể hơn:

“1. “Đang có thai” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.

2. “Sinh con” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Vợ đã sinh con nhưng không nuôi con trong khoảng thời gian từ khi sinh con đến khi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Vợ đã sinh con nhưng con chết trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tuổi kể từ khi sinh con;

c) Vợ có thai từ 22 tuần tuổi trở lên mà phải đình chỉ thai nghén.

3. Chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hướng dẫn tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều này hoặc ngày đình chỉ thai nghén hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này.

4. Trường hợp vợ đang có thai, sinh con thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai.

5. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi.

6. Trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì việc xác định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn của chồng như sau:

a) Chồng của người mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;

b) Chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

Như vậy, chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn dù vợ đang có thai, sinh con với người khác, đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi không phân biệt con đẻ hay con nuôi và trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Nghị quyết 01/2024 đã hướng dẫn một cách rõ ràng, chi tiết hơn. 


(Nguồn: Vietthink)

2. Hướng dẫn thuận tình ly hôn quy định tại Điều 55 Luật HN&GĐ 2014

Tại Điều 55 Luật HN&GĐ 2014 quy định thuận tình ly hôn: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”

Điều 55 Luật HN&GĐ 2014 được hướng dẫn mới tại Điều 3 Nghị quyết 01/2024 như sau:

“1. “Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn” quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình là trường hợp vợ chồng cùng ký vào đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoặc một bên có đơn khởi kiện ly hôn, còn bên kia đồng ý ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.

2. Thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phải không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

3. Thỏa thuận của vợ chồng về việc chia tài sản bao gồm cả trường hợp vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản.

4. “Việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con” quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình là việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”

3. Hướng dẫn ly hôn theo yêu cầu của một bên tại khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ 2014 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ 2014 ly hôn theo yêu cầu của một bên:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Căn cứ quy định tại Điều 4 Nghị quyết 01/2024, quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật HN&GĐ 2014 được hướng dẫn như sau:

“1. “Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

2. “Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng” là vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng dẫn đến xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia. Ví dụ: Vợ, chồng phá tán tài sản gia đình.

3. “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Không có tình nghĩa vợ chồng, ví dụ: vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vợ, chồng sống ly thân, bỏ mặc vợ hoặc chồng;

b) Vợ, chồng có quan hệ ngoại tình;

c) Vợ, chồng xúc phạm nhau, làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, tổn thất về tinh thần hoặc gây thương tích, tổn hại đến sức khỏe của nhau;

d) Không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển.”

4. Hướng dẫn giải quyết việc nuôi con khi ly hôn quy định tại Điều 81 Luật HN&GĐ 2014

Tại Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Quy định này được hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết 01/2024 như sau: 

Thứ nhất, khi xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” phải đánh giá khách quan, toàn diện 07 tiêu chí sau đây: 

i) Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột;

ii) Quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi;

iii) Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ;

iv) Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con;

v) Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con;

vi) Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con;

vii) Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ.

Thứ hai, việc lấy ý kiến của các con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên phải đảm bảo 03 yêu cầu sau đây:

i) Bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình;

ii) Không lấy ý kiến trước mặt cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho con;

iii) Không ép buộc, không gây áp lực, căng thẳng cho con.

Thứ ba, “Người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” là trường hợp người mẹ thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

i) Mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tự chăm sóc bản thân hoặc không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Ví dụ: Trường hợp người mẹ bị đột quỵ và liệt nửa người, không còn khả năng đi lại thì Tòa án không giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

ii) Có thu nhập mỗi tháng thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người mẹ đang cư trú và không có tài sản nào khác để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

iii) Người mẹ không có điều kiện về thời gian tối thiểu để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Nếu trường hợp điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người cha không tốt hơn điều kiện của người mẹ thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án quyết định giao con cho mẹ trực tiếp nuôi. 

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000 nếu không có thỏa thuận thì theo nguyên tắc mẹ được trực tiếp nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Tại Nghị quyết 01/2024 hướng dẫn mới chi tiết, rõ ràng về trường hợp mẹ không đủ điều kiện nuôi con dưới 36 tháng tuổi, để tạo mọi điều kiện cho đứa trẻ có môi trường, điều kiện kinh tế tốt nhất để được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Nghị quyết 01/2024 cũng đã hướng dẫn cụ thể 07 tiêu chí xem xét quyền lợi về mọi mặt của con, 03 yêu cầu khi lấy ý kiến con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi.

5. Hướng dẫn nghĩa vụ cấp dưỡng cho con quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ 2014 

Căn cứ tại khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ 2014 quy định Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
“... 2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.”

Tại Điều 7 Nghị quyết 01/2024, quy định về Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ 2014 được hướng dẫn như sau:

“1. Trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng thì Tòa án giải thích cho họ việc yêu cầu cấp dưỡng cho con là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy người trực tiếp nuôi con có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng và việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện thì Tòa án không buộc bên kia phải cấp dưỡng cho con.

2. Tiền cấp dưỡng cho con là toàn bộ chi phí cho việc nuôi dưỡng, học tập của con và do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con.

3. Trường hợp các bên không thỏa thuận được phương thức cấp dưỡng thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng hàng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện kinh tế của người cấp dưỡng.

4. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình phát sinh kể từ thời điểm cha, mẹ không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Nghị quyết 01/2024 đã hướng dẫn rõ ràng, chi tiết về việc áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 trong giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình. 

Ngoài ra, Nghị quyết 01/2024 còn hướng dẫn cụ thể trường hợp hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật HN&GĐ 2014; trường hợp hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên quy định tại Điều 85 Luật HN&GĐ 2014; hướng dẫn xác định thẩm quyền giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp; hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ và hướng dẫn án phí trong giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình. 

Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 24/4/2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024. Nghị quyết 01/2024 ban hành là điều rất cần thiết, đảm bảo việc áp dụng được thống nhất và đúng pháp luật.

TTLS. Ma Thùy Linh - Công ty Luật TNHH Vietthink

Cập nhật: 03/07/2024
Lượt xem:913