Quay lại Bản in
Cỡ chữ

TPP và cộng đồng doanh nghiệp việt nam: Kì I - Cơ hội và thách thức

TPP được nhận định là một hiệp định của thế kỷ XXI với phạm vi rộng, mức độ cam kết sâu bởi nhiều yếu tố: TPP có thể được mở rộng ra đối với các thành viên APEC, thậm chí ngoài khu vực châu Á - Thái Bình Dương; thị trường của các quốc gia tham gia TPP được mở cửa toàn diện, thuế quan được cắt giảm gần như toàn bộ 100% ,các lĩnh vực đàm phán của TPP trải rộng khắp với những ưu tiên bao gồm dịch vụ tài chính, đầu tư, lao động và sở hữu trí tuệ…

Đứng trước ngưỡng của TPP, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội để phát triển cùng với đó sẽ là những thách thức rất lớn được đặt ra trong quá trình hoạt động.

Những cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam  

Đầu tiên cần phải kể đến việc TPP có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thông qua việc các thị trường nhập khẩu được phân bổ đồng đều hơn tại các khu vực trên toàn cầu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang nghiêng phần lớn về thị phần các nước trong khu vực Châu Á. Về lâu dài điều này sẽ có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của nước ta nếu xảy ra biến động xấu về kinh tế với thị trường Châu Á. TPP sẽ mở ra cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường các khu vực khác như Châu Âu, Châu Mỹ… tránh gặp những rủi ro về mặt tăng trưởng xuất khẩu. 
 
 Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ việc Việt Nam gia nhập TPP.

Thứ hai, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào thị trường mua sắm công của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada… trong khi doanh nghiệp của các nước cạnh tranh với Việt Nam, do chưa có quan hệ FTA (Hiệp ước thương mại giữa hai hay nhiều quốc gia) với các quốc gia này, sẽ không được tham gia. Dựa trên những số liệu của Chính phủ Hoa Kỳ, chỉ tính riêng hoạt động mua sắm công các loại hàng hóa, vật dụng văn phòng thông thường của các cơ quan công quyền nước này hàng năm vào khoảng 10 - 12 tỷ USD. Đây được xem là một “miếng bánh” mới hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.

Thứ ba, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như nông sản, dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ... sẽ thuận lợi hơn khi vào các thị trường như Nhật Bản, Canada và Mỹ vì khi thực hiện TPP các quốc gia này sẽ giảm thuế nhập khẩu cho các mặt hàng trên của Việt Nam về mức 0%, hứa hẹn có bước phát triển vượt bậc về kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này.

Thứ tư, là với những cam kết cải nhằm thiện môi trường đầu tư của Việt Nam cộng đồng doanh nghiệp sẽ có cơ hội lớn để đón dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam ngày càng nhiều. Khi đó cộng đồng doanh nghiệp Việt nam sẽ có thể giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất  để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu mà TPP mang lại.

 … và những thách thức đặt ra không hề nhỏ

Bên cạnh những thuận lợi lớn kể trên, TPP cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức không hề nhỏ với các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ nhất, sẽ có những doanh nghiệp Việt Nam mất khả năng cạnh tranh và bị đào thải. Việc cam kết giảm thuế quan chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh. Cùng với tâm lý “sính ngoại” sẵn có của người tiêu dùng Việt, thực tế này có thể dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam bị mất chỗ đứng ngay trên “sân nhà” của mình – thị trường nội địa. Thực tế này đặc biệt nguy hiểm đối với các nhóm hàng nông sản, là nhóm gắn liền với đối tượng dễ bị tác động trong hội nhập là nông dân – đội ngũ lao động đông đảo tuy nhiên trình độ lại chưa phát triển tương xứng . Hậu quả tất yếu xảy ra các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với nhau gay gắt hơn và doanh nghiệp nào yếu kém sẽ bị đào thải khỏi thị trường.

Tham gia TPP kéo theo việc mở cửa thị trường dịch vụ, là mảng hoạt động thương mại mà các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế và dè dặt nhất. Thị trường được mở cửa đồng nghĩa các nhà cung cấp có tiềm lực lớn, có kinh nghiệm và danh tiếng lâu năm, có ưu thế về cung cấp dịch vụ trên thế giới ồ ạt vào Việt Nam để khai thác thị trường mới nhiều tiềm năng. Viễn cảnh này sẽ khiến các đơn vị cung cấp dịch vụ trong nước gặp không ít khó khăn để cạnh tranh và việc mất thị phần là nguy cơ gần như chắc chắn sẽ xảy ra.

Thứ hai, TPP sẽ đem lại thách thức từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh tranh… và các ràng buộc mang tính thủ tục trong các quy định liên quan đến rào cản kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ với các thị trường “khó tính”. Ví dụ điển hình là các kết quả đàm phán FTA của Mỹ trong giai đoạn gần đây cho thấy nước này đặc biệt chú trọng đến việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường và lao động hay các ràng buộc về các quy định về TBT (Hàng rào Kỹ thuật đối với Thương mại), SPS (Các biện pháp Kiểm dịch động thực vật)…. Chính điều này sẽ tạo ra những khó khăn nhất định cũng như làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệpViệt Nam, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ ba, những thách thức liên quan đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có thể nói Mỹ là đối tác rất cứng rắn trong những vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cả trong WTO lẫn trong các FTA của nước này. Không nằm ngoài xu thế đó, đối với TPP vấn đề này cũng được Mỹ thể hiện quan điểm tương đối rõ ràng. Tuy nhiên vấn đề này lại chính là một điểm yếu của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vì hiện nay, tuy đã tham gia Công ước Bern nhưng Việt Nam vẫn chưa có các thiết chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ một cách thực sự hiệu quả. Bằng chứng là số vụ việc vi phạm sở hữu trí tuệ còn rất nhiều. Với lí do đó nếu doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường của các nước có yêu cầu bảo hộ chặt chẽ sẽ dẫn tới những khó khăn hơn rất nhiều khi phải bỏ chi phí nhiều hơn trước đây cho cùng một loại sản phẩm. Vẫn biết rằng tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay cần phải được chấm dứt nếu muốn phát triển nền kinh tế một cách lành mạnh. Tuy nhiên, thực hiện ngay và toàn bộ, thay vì thực hiện dần dần, các yêu cầu của hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ  (TRIPS)  gần như là việc bất khả thi và tất nhiên sẽ tạo ra rất nhiều hệ lụy không tốt về phía các doanh nghiệp.
 
 Ngành dệt may đứng trước khó khăn từ những quy định bắt buộc của TPP.

 Thứ tư, thách thức từ việc chứng minh xuất xứ của nguyên liệu đầu vào. Theo các quy định của TPP, một ngành chỉ hưởng ưu đãi về thuế xuất khẩu nếu chứng minh được nguồn nguyên liệu đầu vào có xuất xứ từ các nước tham gia TPP. Lấy ví ngành dệt may của Việt Nam – ngành được coi là ngành xuất khẩu chủ lực nhưng 75% nguyên vật liệu vẫn phải nhập từ Trung Quốc trong khi Trung Quốc không tham gia TPP nên rõ ràng ngành dệt may sẽ không được hưởng ưu đãi thuế quan như các ngành khác. Sở dĩ xảy ra tình trạng này là do công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển hoặc phát triển chưa tương xứng với quy mô nên rất không chỉ ngành dệt may kể trên mà nhiều ngành sản xuất khác của Việt Nam cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Nếu tình trạng này còn xảy ra  thì một số doanh nghiệp Việt Nam gần như hoàn toàn không được hưởng lợi gì từ việc ký kết TPP.
Từ những thực tế kể trên khi Việt Nam chính thức gia nhập TPP, các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn cần có những sự thay đổi để nắm bắt tốt nhất cơ hội lớn này, bằng không việc tụt hậu và bị đào thải sẽ là điều không thể tránh khỏi.

 Ths. Lương Ngọc Quang - Công ty Luật Vietthink 
_____________________________

Nguồn tư liệu:

1. Hiệp định TPP: Thách thức với doanh nghiệp Việt Nam – Tác giả Phương Ly 
2. Tác động của các Hiệp định thương mại tới doanh nghiệp Việt Nam – Tác giả Lê Ninh.
Cập nhật: 20/04/2017
Lượt xem:6122