Quay lại Bản in
Cỡ chữ

Bất cập trong chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI

Xu thế Toàn cầu hóa, Khu vực hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ và được đánh giá như một công cụ rất hữu hiệu để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ, trong quá trình hợp tác đầu tư, kinh doanh qua biên giới, các nước đang phát triển như Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận và tận dụng những công nghệ, kiến thức và kỹ năng phong phú, đa dạng, hiện đại, trình độ công nghệ và khoa học tân tiến của các nước bạn, nhất là các cường quốc trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI chưa được như kỳ vọng. 

Đại đa số công nghệ chuyển giao chỉ đạt trình độ công nghệ ở mức trung bình. Thậm chí, có trường hợp chuyển giao công nghệ thanh lý khiến Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghệ. Tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu kém do hầu hết công nghệ sử dụng trong dự án FDI là công nghệ đã và đang được sử dụng phổ biến ở chính quốc. Một trong những nguyên nhân chính là những vướng mắc còn tồn tại trong quy định của pháp luật, các công nghệ hạn chế chuyển giao thì các quy định về điều kiện ràng buộc chưa tạo thành rào cản; nhiều địa phương chạy theo thành tích, vượt rào để thu hút FDI bằng mọi giá và chưa có những quy định về cơ chế quản lý việc chuyển giá của các doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Vấn đề thẩm định công nghệ và quản lý việc chuyển giao công nghệ

Theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ (“Luật CGCN”), hình thức chuyển giao công nghệ (“CGCN”) diễn ra khá đa dạng: Hợp đồng CGCN độc lập; Phần CGCN trong dự án đầu tư; Hợp đồng nhượng quyền thương mại; Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo CGCN,.... và được điều chỉnh bởi nhiều luật khác nhau: Luật CGCN, Luật Đầu tư, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại,... Các quy định của Luật CGCN hiện nay chủ yếu tập trung vào các quy định khuyến khích chuyển giao công nghệ, hạn chế chuyển giao công nghệ, cấm chuyển giao, hợp đồng CGCN và các dịch vụ CGCN. 

Hiện nay, có 3 nhóm cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến việc CGCN , cụ thể:
  • Nhóm liên quan đến hoạt động đầu tư (Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất; Sở Kế hoạch và Đầu tư,…);
  • Nhóm cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghệ (Sở KH&CN, các cơ quan quản lý KH&CN cấp huyện);
  • Nhóm cơ quan quản lý hoạt động thương mại (Sở Công thương).
Tuy nhiên, Luật CGCN hiện nay không có điều khoản nào quy định vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thẩm định và thẩm tra công nghệ đối với các công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài vào trong nước, từ trong nước ra nước ngoài, hay nội bộ trong nước để ngăn chặn các dòng công nghệ cấm đầu tư và hạn chế đầu tư tại Việt Nam. Hơn thế nữa, hiện nay việc cấp phép đầu tư tại các địa phương thuộc thẩm quyền của cả UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện. Trong khi đó, Thông tư số 10/2009/TT-BKHCN ngày 24/4/2009 hướng dẫn thẩm tra công nghệ các dự án đầu tư mới chỉ quy định, hướng dẫn thẩm tra công nghệ các Dự án do Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, các Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế cấp Giấy chứng nhận đầu tư [[1]] là chưa đầy đủ. Với việc quy định như vậy, còn quá nhiều khe hở để các công nghệ cấm chuyển giao và hạn chế chuyển giao vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền phê duyệt của UBND cấp huyện, hợp đồng nhượng quyền thương mại, hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo CGCN tại các địa phương. Do vậy, cần thiết phải bổ sung và quy định trách nhiệm của UBND các cấp (tỉnh, huyện) và vai trò của cơ quan đầu mối về chuyên môn để thực hiện vai trò quản lý thống nhất các công nghệ được chuyển giao. 

Thực tế cho thấy, hiện nay cơ quan quản lý Nhà nước về Khoa học công nghệ (KHCN) chỉ quản lý "phần ngọn" vì khi chủ đầu tư hoặc đối tác nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư vốn 100% nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư thì phần công nghệ, thiết bị, máy móc của dự án bị xem nhẹ. Vì vậy, cơ quan quản lý về công nghệ không nắm được luồng công nghệ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngay từ khâu đầu vào (trừ những dự án đầu tư do Thủ tướng chủ chương phê duyệt) để góp phần hạn chế việc nhập khẩu, sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu. 

Thống kê từ Bộ KHCN thời gian qua cho thấy, có rất ít hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc các dự án FDI đăng ký với các cơ quan có thẩm quyền. Trong đó, phần lớn các hợp đồng được cấp giấy chứng nhận đăng ký là hợp đồng chuyển giao công nghệ sửa đổi, bổ sung. Nguyên nhân là quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ không bắt buộc các doanh nghiệp phải đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền[[2]]. Vì vậy, đa số các doanh nghiệp chỉ đăng ký khi thấy được hưởng lợi từ việc đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, về nguyên tắc, giá trị công nghệ chuyển giao trong hợp đồng lại được tính vào vốn đầu tư và hạch toán chi phí chuyển giao công nghệ vào chi phí thực tế của doanh nghiệp. Thế nhưng, thực tế chuyển giao thế nào thì các cơ quan Nhà nước lại hoàn toàn không quản lý được. Bằng cách này, doanh nghiệp nước ngoài có thể khai tăng vốn đầu tư để tăng chi phí, chuyển giá ra công ty mẹ để trốn thuế. 
Tóm lại, với cơ chế như hiện nay, cơ quan quản lý Nhà nước không thể kiểm soát được công nghệ nhập vào Việt Nam.

Vấn đề chuyển giá trong chuyển giao công nghệ

Đây vẫn đã và đang là một trong những vấn đề rất “nóng” trong thời gian qua, nhất là sau khi Luật CGCN ra đời, bãi bỏ việc kiểm soát giá trong các hợp đồng CGCN. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường diễn ra dưới hình thức CGCN thông qua góp vốn đầu tư giữa công ty mẹ ở nước ngoài với công ty con ở trong nước. Quá trình góp vốn bằng công nghệ trong các dự án đầu tư, công ty mẹ thường kê khai giá trị công nghệ cao hơn rất nhiều so với giá thực tế, công ty con chuyển giá trị đó về công ty mẹ dưới hình thức khấu hao, tạo ra hiện tượng lãi thật, lỗ giả nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp hàng năm cho Nhà nước. 

Tình trạng “lách luật” này đã gây rất nhiều khó khăn Sở khoa học và Công nghệ cũng như các cơ quan quản lý Thuế trong thời gian qua. Số lượng hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI chiếm 80% hồ sơ cần phê duyệt. Tuy nhiên, giá trị hợp đồng chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI khó định lượng bằng số liệu cụ thể và thường lớn hơn giá trị thực của công nghệ sẽ chuyển giao. Bên cạnh đó, đối tượng chuyển giao công nghệ của một số doanh nghiệp không rõ ràng, giá trị thiết bị kèm hợp đồng chuyển giao công nghệ không tách bạch cụ thể, khó xác định,  nhiều trường hợp doanh nghiệp nước ngoài báo lỗ nhưng doanh thu hàng năm vẫn tăng 20-30% và lại liên tục mở rộng đầu tư. Năm 2012, sau khi thanh tra, Cục Thuế TP. HCM đã xác định được rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu chuyển giá và đã truy thu được 11,3 tỉ đồng tiền thuế và kéo số lỗ giảm 368 tỉ đồng. Nếu tình trạng trên còn tiếp diễn sẽ gây thất thoát rất lớn nguồn thuế cho quốc gia và gây khó khăn trong hoạt động quản lý thuế và quản lý kinh tế, thị trường. 

Do vậy, để chấm dứt hiện tượng này, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cần thiết thực hiện các hoạt động sau:
  • Thứ nhất: Phải thiết lập cơ chế hậu kiểm về giá công nghệ chuyển giao sau quá trình cấp phép đầu tư để chấm dứt hiện tượng này.
  • Thứ hai: chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong hoạt động cấp GCNĐT, nhất là cơ quan thuế, hải quan, tài chính và kết nối với các cơ quan Việt Nam ở nước ngoài; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong hoạt động chống chuyển giá; cơ quan quản lý đầu tư kịp thời phát hiện dấu hiệu chuyển giá, lỗ giả và trao đổi thông tin với cơ quan thuế, hải quan để tiến hành thanh tra, kiểm tra ngăn chặn hoạt động này.
  • Thứ ba: cần hoàn thiện hành lang pháp lý về thanh tra chống chuyển giá; Luật Quản lý thuế nên quy định cụ thể, chi tiết và có chế tài xử lý mạnh hơn về công tác thanh tra giá chuyển nhượng; sửa đổi và bổ sung Thông tư số 66/2010/TT-BTC ngày 22/4/2010 của Bộ Tài chính theo hướng chi tiết, cụ thể và dễ hiểu hơn; nên có quy định khống chế mức trần lãi suất tiền vay ngoại tệ mà các doanh nghiệp FDI hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam vay vốn Ngân hàng nước ngoài; về lâu dài nên đề xuất ban hành Luật Chống chuyển giá.
  • Thứ tư: sửa đổi, bổ sung Luật chuyển giao công nghệ theo hướng bắt buộc đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ trong trường hợp chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam để có thể kiểm tra, giám sát được nội dung công nghệ sẽ chuyển giao; hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư, chuyển giao công nghệ. Nội dung giải trình công nghệ, thiết bị phải là nội dung bắt buộc trong các dự án đầu tư, để các cơ quan thẩm định có căn cứ xem xét, đánh giá, thẩm định, ngăn chặn ngay từ đầu các công nghệ, thiết bị cũ, lạc hậu, tránh nguy cơ Việt Nam sẽ trở thành bãi rác công nghệ như các ban ngành đã “quan ngại”.
LS. Nguyễn Thị Phương - Công ty Luật Vietthink

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Hải. (2012) Xây dựng Luật KH&CN – từ tiếp cận so sánh. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21 (229), tr.29-35.
2. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang. (2012) Bàn về thuật ngữ “Thị trường khoa học”, “thị trường công nghệ” và “thị trường khoa học và công nghệ”. Tạp chí Hoạt động Khoa học, Bộ KH&CN, ISSN 1859 – 4794, số 641, tr. 50 – 54.
3. Nguyễn Vân Anh, Lê Vũ Toàn, Đàm Quang, Hoàng Thanh Hạnh. (2013) Một số ý kiến trao đổi liên quan đến thuật ngữ “thẩm định/thẩm tra công nghệ. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, ISSN 1859 – 4794, số 11, tr. 33- 36.
4. TS. Nguyễn Thị Vân Anh “Bàn về sửa đổi Luật chuyển giao công nghệ tiếp cận từ sơ sánh với Luật khoa học và công nghệ”
(https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2015/10/10/bn-ve-sua-doi-luat-chuyen-giao-cng-nghe-tiep-can-tu-so-snh-voi-luat-khoa-hoc-v-cng-nghe/).
___________________
[1] Điều 37, Điều 38, Điều 39 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.
[2] Điều 6, Nghị định 133/2008/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 31/12/2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật Chuyển giao công nghệ
Cập nhật: 03/10/2016
Lượt xem:8787