Tin Liên Quan
Quay lại Bản in
Cỡ chữ

“Củng cố” vị thế cổ đông thiểu số theo Luật Doanh nghiệp 2020

Với đặc thù sở hữu tỷ lệ cổ phần nhỏ và bị giới hạn quyền tham gia quản lý, điều hành, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam qua các thời kỳ luôn có cơ chế bảo vệ nhóm Cổ đông thiểu số (CĐTS) nhằm thiết lập sự cân bằng lợi ích trong công ty. Tuy nhiên, không phải lúc nào các cơ chế bảo vệ cũng phát huy hiệu quả. Thực tiễn thi hành Luật Doanh nghiệp (LDN) 2014 thời gian qua cho thấy, việc thực hiện quyền của CĐTS còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại; dẫn đến tranh chấp giữa các nhóm cổ đông ngày càng phổ biến với tính chất ngày càng đa dạng. Thực tiễn trên cho thấy bài toán hài hòa quyền lợi giữa các nhóm cổ đông đang được quan tâm hơn bao giờ hết. Đặt trong bối cảnh đó, những nội dung sửa đổi của LDN 2020 về quyền của CĐTS, được kỳ vọng sẽ góp phần tháo gỡ “nút thắt” nói trên, từng bước củng cố và mở rộng vị thế của CĐTS.

Thế nào là cổ đông thiểu số?
Pháp luật doanh nghiệp hiện chưa có định nghĩa thế nào là CĐTS. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, hiện có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:

Quan điểm thứ nhất cho rằng CĐTS là những cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu dưới 5% số cổ phần trong công ty. Cách hiểu này xuất phát từ việc pháp luật Chứng khoán (khoản 18 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019) định nghĩa cổ đông lớn (CĐL) là cổ đông sở hữu từ 5% (năm phần trăm) trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành. Theo đó, người sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần trong công ty được xếp vào nhóm CĐTS. Với cách hiểu này, tỉ lệ sở hữu cổ phần là tiêu chí duy nhất để xác định CĐTS trong công ty.

Quan điểm thứ hai
cho rằng để xác định CĐTS cần xem xét tổng thể trên cả tiêu chí tỷ lệ sở hữu cổ phần và khả năng chi phối, kiểm soát hoạt động trong công ty giữa các nhóm cổ đông. Bởi trên thực tế, vẫn có trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần tương đối lớn, nhưng lại không có quyền kiểm soát, điều hành chi phối trong công ty do nhóm CĐL nắm giữ đủ số cổ phần để toàn quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Hay có trường hợp cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần nhỏ, nhưng nắm quyền biểu quyết chi phối lớn, phổ biến nhất là trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Quan điểm này cũng là phù hợp với thực tiễn quản trị tại công ty cổ phần hiện nay.

Sức mạnh của cổ đông lớn đồng thời là hạn chế của cổ đông thiểu số
Thực tế cho thấy khi CĐL nắm nhiều quyền biểu quyết trong tay, họ thường có xu hướng liên kết lại với nhau để đưa ra nhiều quyết định có lợi cho mình hơn thay vì có lợi cho các cổ đông khác, qua đó hạn chế quyền của CĐTS. Trong những tình huống như vậy, việc thực hiện quyền của CĐTS chỉ mang tính hình thức, bởi:

Thứ nhất, CĐTS không sở hữu đủ tỷ lệ cổ phần cần thiết để ngăn cản, phủ quyết các quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) được cho là trái với quyền lợi của Công ty. Ngược lại, nhóm CĐL với tỷ lệ cổ phần chiếm đa số, có thể dễ dàng thông qua mọi nghị quyết, quyết định của ĐHĐCĐ mà không cần quan tâm đến ý kiến đồng thuận hay phản đối của nhóm CĐTS.

Thứ hai, với số phiếu biểu quyết hạn chế, CĐTS khó có thể bầu/bổ nhiệm nhân sự của mình nắm những vị trí trong Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban Giám đốc cũng như Ban kiểm soát (BKS). Do đó, CĐTS hoặc không bầu/bổ nhiệm thành công nhân sự của mình hoặc chỉ chiếm một số lượng hạn chế và không nắm giữ các vị trí trọng yếu trong HĐQT, Ban giám đốc, BKS (như Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc, Trưởng BKS). Vì vậy, CĐTS thường không nắm được thông tin về các quyết sách bất lợi do nhóm CĐL thực hiện, hoặc khi có thông tin thì cũng không đủ sức nặng để ngăn cản, phủ quyết các nghị quyết, quyết định của HĐQT, Ban giám đốc, BKS. Ngược lại, với tỷ lệ áp đảo về số lượng thành viên HĐQT, BKS, các CĐL luôn giữ quyền chủ động quyết định trong việc thông qua mọi nghị quyết, quyết định của HĐQT, BKS mà không phụ thuộc vào lá phiếu của các thành viên HĐQT, BKS đại diện cho nhóm CĐTS.

Thứ ba, hệ quả của các rào cản nói trên, CĐTS không thể trực tiếp nắm bắt các thông tin, số liệu về tình hình hoạt động đầu tư, kinh doanh, hoạt động tài chính của công ty để kịp thời có ý kiến can thiệp. Chưa kể các thông tin này còn có thể được xử lý trước khi công bố, cung cấp nên không đảm bảo tính trung thực, tin cậy.

Thông qua việc “vận dụng” một cách tối đa những hạn chế của pháp luật đối với CĐTS, CĐL thường chèn ép, khống chế vai trò và quyền hạn của nhóm CĐTS bằng mọi phương cách. Với việc bố trí nhân sự của mình nắm các vị trí chủ chốt, sửa đổi Điều lệ, Quy chế hoạt động của HĐQT và Quy chế tài chính,... để thiết lập “luật chơi”, CĐL có thể chi phối gần như toàn bộ hoạt động đầu tư, kinh doanh và hoạt động tài chính hàng ngày của công ty; cũng như kiểm soát toàn bộ các thông tin, số liệu về hoạt động này để phục vụ cho mục tiêu, ý đồ của mình.


Nguồn ảnh: Internet

Luật Doanh nghiệp 2020 đã tạo điều kiện mở rộng quyền của cổ đông thiểu số
Mặc dù “cuộc đua” giữa các nhóm cổ đông trong công ty cổ phần được quyết định phần lớn vào việc ai sở hữu cổ phần chi phối. Tuy nhiên, việc thiết lập cơ chế kiểm soát “quyền lực” trong công ty nhằm dung hòa quyền lợi của nhóm CĐTS mới là giải pháp để tăng cường sự giám sát “chéo”, duy trì sự ổn định trong điều hành, quản trị công ty trong dài hạn. Trước một số bất cập của LDN 2014 về quyền của CĐTS, LDN 2020 đã có nhiều điều chỉnh kịp thời để tạo thuận lợi hơn cho CĐTS thực hiện quyền của mình, cụ thể:

Thứ nhất, LDN 2020 xóa bỏ điều kiện cổ đông phải sở hữu cổ phần liên tục trong thời hạn 06 tháng 
Theo quy định tại LDN 2014, để thực hiện một số quyền của mình như đề cử người vào HĐQT và BKS, triệu tập ĐHĐCĐ bất thường..., cổ đông bắt buộc phải sở hữu liên tục cổ phần trong thời hạn 06 tháng với tỷ lệ sở hữu tối thiểu 5% cổ phần phổ thông hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Quy định này làm hạn chế quyền của cổ đông mới khi không được thực hiện ngay quyền làm chủ của mình, thậm chí trong nhiều trường hợp, nhóm cổ đông cũ tranh thủ khoảng thời gian 06 tháng này để thực hiện một số ý đồ tư lợi như sửa đổi Điều lệ, quy chế nội bộ, thay đổi các nhân sự cấp cao để làm hạn chế quyền lực của cổ đông mới. Đây cũng chính là một trong những rào cản, khiến các doanh nghiệp ít mặn mà tham gia cổ phần hóa tại các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua. 

Ví dụ 1: Vụ việc tại Tổng Công ty cổ phần bia rượu nước giải khát Sài Gòn (Sabeco), Công ty Thai Beverage Public (Thaibev) đã mua thành công 53,59% vốn điều lệ của Sabeco thông qua Công ty TNHH Vietnam Beverage. Tuy nhiên do không sở hữu cổ phần liên tục 06 tháng, nên Thaibev không được đề cử người vào HĐQT và BKS theo LDN 2014. Để giải quyết vướng mắc trên, Thaibev phải nhiều lần kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương để đề xuất Bộ Công Thương (Sở hữu 36% cổ phần) triệu tập ĐHĐCĐ bất thường để bầu các nhân sự do ThaiBev đề cử vào vị trí thành viên HĐQT. Mặc dù ThaiBev là cổ đông sở hữu tỷ lệ lớn cổ phần, nhưng vấn đề mà Thaibev gặp phải, là rào cản chung mà CĐTS gặp phải thời gian qua.

Tại thời điểm xây dựng LDN 2014, các nhà làm luật có quan điểm cho rằng cần phải giới hạn thời gian sở hữu cổ phần của cổ đông trước khi cổ đông mới được thực hiện một số quyền năng nhất định, để đảm bảo duy trì hoạt động ổn định của công ty, tránh nguy cơ cổ đông vừa góp vốn khi chưa có thời gian tìm hiểu đã dễ dàng có ngay quyền “quấy phá” doanh nghiệp. Tuy vậy, ở khía cạnh khác, quy định trên lại chứa đựng mâu thuẫn khi cổ đông đã bỏ ra một số tiền lớn để sở hữu cổ phần nhưng không được tiếp quản và thực hiện các quyền năng của mình do không sở hữu cổ phần liên tục trong thời hạn 06 tháng. Điều này cũng không phù hợp khi LDN 2014 thừa nhận tư cách cổ đông được xác lập kể từ thời điểm cổ đông góp đủ vốn và được ghi nhận đầy đủ thông tin trong danh sách cổ đông. Rõ ràng, khi nhóm cổ đông cũ lợi dụng hạn chế nói trên thực hiện các giao dịch tư lợi nhằm tẩu tán tài sản công ty, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các cổ đông mới. Chính vì vậy, LDN 2020 đã bãi bỏ việc yêu cầu cổ đông sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng là điều kiện tiên quyết để có thể thực thi một số quyền như: Đề cử người vào HĐQT và BKS; Quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,... Đây là cách tiếp cận phù hợp với thông lệ quản trị tốt trên thế giới, thay vì giới hạn quyền lợi của CĐTS để đảm bảo sự an toàn, ổn định của doanh nghiệp thì chính bản thân doanh nghiệp phải tự xây dựng hệ thống quy chế nội bộ để thích ứng với những rào cản, biến động của thị trường. Quy định này sẽ áp dụng với tất cả cổ đông công ty, không phân biệt tỷ lệ sở hữu cổ phần. Tuy vậy, dưới góc độ thực tiễn, CĐTS sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ thay đổi nói trên. Bởi trên thực tế, nếu là một CĐL mới tiếp nhận chuyển nhượng cổ phần, họ sẽ thường “dàn xếp”, “hiệp thương” với các cổ đông hiện hữu và/hoặc bên chuyển nhượng để tiếp quản ngay công ty, bố trí nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy; trong khi đó, CĐTS ít khi đạt được sự thỏa thuận nói trên, mà phải chờ sở hữu liên tục 06 tháng mới thực hiện được quyền của mình.

Thứ hai, LDN 2020 điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu của cổ đông để thực hiện một số quyền năng nhất định. 
LDN 2014 quy định cổ đông phải sở hữu tỷ lệ cổ phần từ 10%, nếu Điều lệ Công ty không quy định một tỷ lệ khác nhỏ hơn, mới được xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT,… Căn cứ quy định này, phần lớn các doanh nghiệp (đại chúng hoặc không đại chúng) đều lựa chọn mốc “10% cổ phần” là giới hạn tối thiểu một cổ đông phải sở hữu đủ để được thực hiện một số quyền năng nhất định và được quy định rõ trong Điều lệ các công ty này. Quy định này được đánh giá là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn quản trị tại Việt Nam. Bởi tiếp cận thông tin là một trong những quyền quan trọng để cổ đông thực hiện quyền giám sát các hoạt động kinh doanh, giám sát việc điều hành của HĐQT, Ban Tổng giám đốc và BKS. Mặc dù pháp luật cho phép doanh nghiệp có thể đưa ra một tỷ lệ thấp hơn 10%, nhưng trên thực tế, CĐL - người nắm luật chơi, ít khi điều chỉnh thấp hơn để có lợi cho mình.

Ví dụ 2: Theo Bản án 19/2019/KDTM-ST ngày 11/06/2019 của TAND thành phố Hà Nội về tranh chấp giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Đại L là sở hữu 140.000 cổ phần, chiếm 5% vốn điều lệ Công ty; Bị đơn là Công ty cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không. Ông L có nhiều lần yêu cầu lãnh đạo Công ty cung cấp các tài liệu theo quy định của pháp luật, nhưng không được công ty chấp thuận. Do đó, ông đã khởi kiện công ty lên Tòa và kết quả là Công ty đã phải cung cấp cho Ông L những thông tin, văn bản mà ông L yêu cầu.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 115 LDN 2020, cổ đông chỉ cần sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty sẽ có các quyền: Xem xét, tra cứu, trích lục số biên bản và nghị quyết, quyết định của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm, báo cáo của Ban kiểm soát, hợp đồng, giao dịch phải thông qua HĐQT và tài liệu khác, trừ tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh doanh của công ty; Yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ; Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Trong khi đó, theo LDN 2014 trước đây, chỉ Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ mới được thực hiện các quyền nói trên. Thông qua việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông trong việc thực hiện quyền của mình, LDN 2020 đã mở rộng quyền của CĐTS. Một mặt, trao thêm quyền cho các cổ đông trong việc chủ động tiếp cận các thông tin hoạt động của công ty để giúp họ giám sát công ty, cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ tốt hơn. Đồng thời tương thích với quyền cổ đông sở hữu 5% tại Luật Chứng khoán 2019 cũng như phù hợp với thông lệ quản trị trên thế giới khi đề cao quyền CĐTS để các cổ đông yên tâm bỏ vốn đầu tư.

Thứ ba, LDN 2020 còn “nới rộng” thời hạn lập danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ và thời hạn gửi thông báo mời họp. Theo đó, Khoản 1 Điều 141 LDN 2020, quy định danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ được lập không quá 10 ngày trước ngày gửi giấy mời họp ĐHĐCĐ nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn ngắn hơn (Trước đây, LDN 2014 quy định không sớm hơn 05 ngày); khoản 1 Điều 143 LDN 2020 quy định, thông báo mời họp đến tất cả cổ đông trong danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất là 21 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn (Trước đây, LDN 2014 quy định chậm nhất 10 ngày).

Những điều chỉnh của LDN 2020 được đánh giá là đòn bẩy quan trọng trong việc bảo đảm thực thi quyền của CĐTS, tạo động lực thu hút các nguồn lực đầu tư vào doanh nghiệp. Kinh nghiệm thực thi pháp luật doanh nghiệp thời gian qua cho thấy, dù hành lang pháp lý có hoàn thiện đến đâu thì việc thực thi các quy định như thế nào còn phụ thuộc vào nhận thức của chính CĐTS về quyền của mình; cũng như tầm nhìn của bản thân doanh nghiệp. Bởi suy cho cùng, khi quản trị doanh nghiệp đi vào chiều sâu, thì mới có thể xây dựng hệ thống quản trị minh bạch; và đảm bảo quyền lợi tốt nhất của các CĐTS là chìa khóa để thu hút cổ đông gia nhập công ty và cũng là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. 

Ths. Ls Cao Thị Hòa, Ths. Ls Lê Văn Tiến - Công ty Luật TNHH Vietthink





Cập nhật: 18/05/2021
Lượt xem:31806